Page 76 - Văn Hóa Tộc Người Nùng
P. 76
với bô" chồng, anh chồng có sự cách biệt nghiêm
ngặt, trước đây không được ngồi ăn cùng mâm,
không được dùng chung chậu rửa mặt. Bô" chồng,
anh chồng không được vào buồng con dâu, em dâu.
Cho dù có việc khẩn cũng vậy. Giả sử cháu nhỏ
khóc trong buồng khi mẹ nó đi vắng bô" chồng, anh
chồng nhò người khác vào bê" cháu ra.
Khi đôi vỢ chồng đã có con đầu lòng, họ hàng,
làng bản sẽ gọi bô" mẹ và cả ông bà nội của cháu bé
theo tên gọi của đứa trẻ. Chẳng hạn vỢ chồng anh
A, có tên đặt cho con là "Phúc", mọi người sẽ gọi
anh ta là: anh Phúc hoặc "jé Phúc", "xúc Phúc", hay
"a Phúc"... Vì thế, đàn ông và đàn bà có con, cháu
thì lâu dần sẽ không ai còn gọi tên tục nữa.
Trong gia dinh, nam nữ đều tham gia công việc
đồng áng, thường thì nam giới cày bừa, nhổ mạ; nữ
giới cấy, gặt... có khi cũng cày bừa như nam giới.
Ngoài công việc đồng áng, phụ nữ còn phải trồng
bông, dệt vải, nhuộm vải và làm các công việc nội
trỢ. Cho nên, mặc dù trong xã hội cũ địa vị của họ
bị coi là thấp hơn nam giới, nhưng phụ nữ Nùng
vẫn đưỢc quý trọng trong gia đình, nuôi nấng con
cái, tê" tự tố tiên thay chồng, thay con khi chúng
chưa đến tuổi trưởng thành.
Những cô gái chưa chồng, nhò tình thương yêu
của bô" mẹ, nhờ phong tục tương đô"i phóng khoáng
của cộng đồng, ngoài việc đồng áng, nội trỢ, họ còn
tự trồng bông, dệt vải, may sắm quần áo, chăn màn
hay trồng thêm hoa màu, chăn nuôi... để bán lấy
tiền làm vô"n liếng riêng hoặc đế làm của hồi môn
khi đi lấy chồng. Trong những buổi chợ phiên,
74