Page 97 - Tín Ngưỡng Cư Dân Ven Biển Quảng Nam
P. 97
iỷ//ỵ~éỵt ,^'ốu'r‘>ỉy
ngày cô" định, lưu truyền, và của riêng từng làng vạn, chứ
không xê xích, thay đổi như cư dân Vàm Láng (ngày vía
Ông là ngày 10-3 âm lịch, rồi sau là ngày 16-6 âm lịch) [73,
tr.247], hoặc như cư dân Phước Hải phải xin keo để được
ông chấp thuận cho tổ chức ngày vía [2, tr.130], hoặc như
cư dân Phước Tỉnh có hai ngày giỗ ông trong một năm [73,
tr.247]. Sự khác biệt còn thể hiện qua việc chọn thòi gian
tổ chức lễ hội cá voi giữa Quảng Nam - Đà Nang vối Thừa
Thiên - Huế, với một sô" địa phương ở Nam Bộ. Nếu ở
Quảng Nam - Đà Nang, ngày cầu ngư là ngày tê" Nam Hải
Ngọc Lân với tư cách như tê Thành hoàng, thì ở Thừa
Thiên Huê" và Nam Bộ thường lấy ngày "ông luỵ", tức ngày
kỵ làm ngày hội. Riêng ở Huế, ngày "kỵ ông" thường vào
ngày rằm tháng ba, và phần lớn chỉ làm lễ lệ [60, tr.l45],
[157, tr.41]. Tín hiệu "ngày rằm" và quy mô cuộc lễ như nói
lên tác động của nhà Phật đốì với ngày hội, mà ở Quảng
Nam - Đà Nẵng không phổ biến. Quảng Nam - Đà Nẵng
cũng không có hiện tượng kết hỢp cúng Thần và Thánh
(Quan Thánh) trong ngày cầu ngư, như cư dân Phưốc Hải,
Vũng Tàu [2, tr.l32].
Về nội dung của lễ và hội: So với cư dân từ vùng biển
Bình Trị Thiên đến Nam Bộ, nội dung các nghi thức chính
trong lễ tê cá ông của Quảng Nam - Đà Nằng diễn ra phức
tạp và chi tiết hơn, đặc biệt là lễ thức đôi với Người khuất
mặt. Giông như lễ cầu ngư của làng Thuận An (Huế), làng
- 9 V -