Page 149 - Tâm Lý Và Sinh Lý
P. 149
Trong cuộc sống hằng ngày,
chúng ta có thể truyền đạt những tin
tức nội tâm ra bên ngoài hoặc tỏ rõ
thái độ của chúng ta thông qua cử chỉ,
điệu bộ, nét mặt... Chẳng hạn, tay bóp
trán tỏ vẻ đang tu lự một vấn đề nan
giải; hai tay khoanh truớc ngực tỏ thái
độ dè dặt, đề phòng, "giữ miếng";
dùng tay gõ vào một vật gì đó tỏ vẻ
sốt ruột; nhún vai lật ngửa hai bàn tay
tỏ ý thăm dò, hỏi ý kiến; vỗ tay vào
trán tỏ vẻ bực mình vì quên đứt một
điều gì... Trong số đó có những động tác nguòi ta làm một cách có suy
nghĩ, nhưng phần lón là những hành động vô ý thức, không tự giác.
Vậy tại sao những cử chỉ ấy lại có thể biểu hiện hoạt động nội tâm của
con người?
Công tác nghiên cứu hệ thống ngôn ngữ thân thể chỉ mói bắt đầu
vào những năm 60 của thế kỷ này. Cho tói hiện giờ, các nhà khoa học đã
quan sát và ghi chép được khoảng gần một triệu ám hiệu và tm hiệu vô
thanh như thế. Giáo sư Mỹ Albert Heiraybin phát hiện, trong toàn bộ
hiệu quả dòng truyền đạt thông tin, chỉ có 7% là từ ngữ, 38% là ngôn ngữ
hữu hành (bao gồm âm điệu, biến âm và các âm hưởng khác), còn 55% là
các tín hiệu ngôn ngữ vô thanh. Giáo sư Birdvvhistell cũng có những
thống kê tưong tự. ông phát hiện, khi trao đổi mặt đối mặt, phần hữu
thanh chỉ chiếm 35%, còn 65% là ngôn ngữ giao tiếp vô thanh. Các
chuyên gia nghiên cứu thân thể phổ biến cho rằng, trong sự giao tiếp của
con ngưòi, ngôn ngữ hữu thanh đưọc dùng để truyền đạt thông tm, ngôn
ngữ vô thanh dùng để biểu thị thái độ, đồng thòi có thể truyền đạt một
lượng lớn thông tin.
Tư thế thân thể bao gồm tư thế tay, cánh tay, đầu, chân, bàn chân...
Các học giả nghiên cứu vấn đề này đã phân tích và khái quát một số tư
thế cũng như ý nghĩa của chúng đại để như sau:
"Vẫy tay biểu thị thái độ hoan nghênh, tán thành, gọi lại, muốn đi xe,
tiễn biệt..., nhưng ờ Hy Lạp thì vẫy tay lại tỏ ý đối phưong đi chỗ khác!".
Mưòi ngón tay: mưòi ngón tay đan chéo vào nhau úp lên mặt hoặc
đặt trước bàn thường tỏ thái độ nôn nóng, sốt ruột, mong ngóng hoặc
149 >