Page 402 - Phòng Và Chữa Các Loại Đau Đầu
P. 402

ĐAU ĐẦU CĂN  NGUYÊN TÂM  LÝ

           thay đổi vị trí đau: vùng đỉnh, chẩm, trán, thái dương...VỊ
           trí đau đầu không tương ứng với một phân bcí thần kinh,
           với  đường  đi  mạch  máu  hay  với  đường  khe  khớp  nào.
           Thường  là  đau  đầu  ở  khu  vực  đường  giữa,  như  ở  chỏm
           đầu,  gốc  mũi  hay  gáy.  Hiếm  thấy  đau  đầu  căn  nguyên
           tâm lý khu trú ở một bên.  Đau  đầu  ở một bên thường là
           thuộc về nguyên nhân thực thê  mà  mỗi căn nguyên  đều
           có những vị trí đau "ưa thích" riêng.
              a.  Đau  đầu  vùng  đỉnh  đầu:  đau  mang  tính  chất  dị
           cảm  nông  khó  chịu,  một  loại  loạn  cảm  giác  nông,  vùng
           chỏm  đầu.  Có  khi  loạn  cảm  giác  sâu  vùng  chỏm,  được
           biểu  hiện  dưới  dạng  cảm  giác  trong  đầu  có  bong  bóng,
           chất  lỏng  hay  đệm  không  khí...  Đây  là  kiểu  đau  đầu
           thường gặp ở những người có tâm trạng lo âu sầu buồn.
               b.  Đau  ở gáy.  đây cũng là kiểu  đau  ở khu vực  đường
           giữa  cũng thường  gặp  ở  trong  đau  đầu  căn  nguyên  tâm
           lý, nhưng đặc biệt khu vực này còn có nhiều nguyên nhân
           đau thực thể khác. Trong trường hợp này, đau chủ yếu là
           do nguyên nhân cơ.  Hội chứng này đã được J.Nick mô tả
           dưới  thuật  ngữ  hội  chứng Atlas  (1949),  một  từ  ngữ  giải
           phẫu thần thoạt gợi lại một người hiền Atlas lấy gáy đội
           trồi  rồi phải chịu đựng một cách thất vọng vì không tìm
           được  thần  Hercule  mạnh  vô  địch  thay  thê  cho  mình.
           Trong  hội  chứng  này,  người  bệnh  có  cảm  giác  bứt  rứt,
           khó chịu,  một cảm giác căng cơ thái quá của những cơ ở
           gáy,  ở vùng cổ sau và hai vai,  dễ vội  nhầm với hư khớp
           cột sống cổ.

               Hội  chứng  Atlas  là  một  chứng  đau  cơ  thực  thụ,  đã
           được chứng minh bằng ghi điện cơ -  E.K.Sepp  (1927), I.I.
           Rousetkii (1946) đã ghi nhận rằng trong giai đoạn ba của
           những  bệnh  nhân  này  có  những  biến  đổi  điện  cơ  tăng
           biên độ điện thế cơ gấp 10 lần so với giai đoạn không đau
           cơ. Một sô" công trình nghiên cứu khác còn xác định được



          402
   397   398   399   400   401   402   403   404   405   406   407