Page 304 - Phòng Và Chữa Các Loại Đau Đầu
P. 304
ĐAU ĐẨU CẨN NGUYÊN TĨNH MẠCH______________________
ĐAU ĐẦU NGUYÊN PHÁT CĂN NGUYÊN
TĨNH MẠCH
I. ĐẠI CƯƠNG
Đau đầu tiên phát căn nguyên tĩnh mạch đã được
Tinel mô tả năm 1932, dưới các tên khác nhau: đau đầu
do gắng sức (Tinel), đau đầu do ho (Symonds, 1956). Tỷ lệ
chỉ chiếm khoảng 0,5% tổng sô" các chứng đau đầu.
II. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG
Khởi phát do gắng sức thể lực như mang vác nặng,
rặn đại tiện; có khi do xỉ mũi, ho, cười, hắt hơi. Đau gắng
sức xuất hiện đột ngột ngay, đau đầu dữ dội như búa bổ
trong 1-2 phút thì hết, cũng có nhiều trường hợp kéo dài
tới dưới 15 phút. Rất hiếm trường hợp đau đầu âm ] tồn
tại trong vài giờ.
Khám xét khách quan không phát hiện một dấu hiệu
bệnh lý gì. Có thể gây lại cơn đau bằng các biện pháp làm
tăng áp lực tĩnh mạch (ép tĩnh mạch cảnh, cúi gập đầu,
bảo bệnh nhân ho...) hoặc làm các động tác căng kéo cơ
(bệnh nhân dậm gót chân đột ngột, sau đó dậm mũi bàn
chân, quay nhanh đầu và cô luân phiên về các phía).
Kiểu đau đầu này có thể xảy ra thứ phát sau một số
nguyên nhân bệnh lý sau: chấn thương sọ não nặng mới
xảy ra, các u (nhất là u hô" sọ sau) và nói chung, các bệnh ở
hô" sọ sau bao gồm phần của não tuỷ (rỗng hành tuỷ) hay
phần hộp sọ (bệnh Paget, dấu ấn động mạch thân nền).
Đau đầu tĩnh mạch này thường hay gặp ở nam giới,
tuổi trung niên, thường có tiền sử tăng huyết áp, đôi khi
có bệnh Migraine. Thường bệnh nhân đến khám bệnh sau
vài ba tháng xuất hiện đau đầu, ít khi quá lâu hàng năm.
304