Page 125 - Phòng Và Chữa Các Loại Đau Đầu
P. 125
PHÒNG VÀ CHỮA CÁC BỆNH ĐAU ĐẦU
Về lâm sàng, hiện nay người ta vẫn chia làm 2 loại:
đau đầu sau chấn thương sọ não sớm và đau đầu sau
chấn thương sọ não muộn (đau đầu xuất hiện sau ba
tháng hay tồn tại kéo dài từ sau khi bị chấn thương sọ
não tới quá ba tháng cũng được coi là muộn).
I. ĐAU ĐẦU SAU CHẤN THUƠNG s ọ n ã o s ớ m
Đau đầu thường xuất hiện vài ngày sau một chấn
động não hay đụng dập não mới. R.Brun (1956) đã nêu
ra: có tới 76% trong 1.177 người bị vết thương sọ, xuất
hiện đau đầu trong 6 đến 20 giờ đầu sau chấn thương.
Đau đầu sau chấn thương này thường là do cơ chế
mạch máu gây nên. Khi các động tác gắng sức thì cường
độ đau tăng và tính chất thon thót như mạch đập. Đau
đầu có tính chất liên tục hoặc thành chu kỳ và đau lan
toả chứ không như Migraine (đau thành cơn, xen vào có
khoảng thời gian không đau). Có khoảng nửa sô" bệnh
nhân đau đầu này chuyển thành dạng đau đầu mạn tính.
Có thể nêu lên khái quát một sô" cơ chê" đặc trưng ở
thời kỳ tiếp ngay sau chấn thương sọ não:
1. Chảy máu m àng não: gây đau đầu lan toả và cứng
gáy, được xác định chẩn đoán bằng dịch não - tuỷ có
máu khi chọc sông thắt lưng.
2. Tảng áp nội sọ: có thể do phù não, thường sẽ nhanh
chóng tự giảm đi hoặc do tác dụng của điều trị tiêu dịch
(dung dịch ưu trương, mannitol, tiêm truyền corticoid...).
Cũng có thê do bọc máu tụ trong não hay ngoài não, trước
đây được xác định chẩn đoán bằng chụp động mạch cảnh,
nhưng hiện nay được chẩn đoán chính xác bằng chụp cắt
lớp vi tính (CT-Scan).
- Bọc máu tụ ngoài não (ngoài màng cứng) thường
thường đi đôi với vỡ hộp sọ. ơ đây thường dẫn đến
125