Page 422 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 422

Bên cạnh đó việc xoá bỏ phạm vi đặc trưng từ loại cũng góp phần tạo nên tính
     siêu thực này.  Từ ‘Irên” có lúc được dùng như từ “khi”. Với cách sử dụng ngôn từ
     ấy,  những  mệnh  đề,  từ ngữ đi  với  “khi”  hầu  hết được chuyển  hoá thành  danh từ
     (Trên hiểm nguy đã tan biến /  Trên hi vọng chẳng vấn vương,...).
         Phải  nói  cảm  xúc  thơ  Siêu  thực  thật  phi  thường.  Nhà  thơ  trộn  lẫn  mọi  cái
     thiêng liêng (vua quan,  trang sách,...), mọi cái bình thường (khoanh bánh trắng,...),
     mọi  hình  ảnh  ẩn  dụ  (đá,  máu,  giấy,  tro  tàn,...),  mọi  nét  nghĩa  thò  kệch  (núi non
     điên ơại,  nhễ nhại bão dõng,...) xáp nhập vào với nhau. Tất cả nhằm tạo nên một
     không gian mênh mỏng, không có giới hạn cả trong vũ trụ lẫn thắm sâu hồn người.
        Để  làm  được điều  này  bất cứ vật  ngăn  cản  hoặc chí ít gỢn  lên  sự ngăn  cản
     cũng đều bị nhà thơ xoá sổ: nơi trú ẩn tan hoang,  ngọn hải đăng đổ nát,  mấy bức
     tường  ngao  ngán,...  Chỉ còn  lại  trong  hình  tượng  thơ  là  khoảng  bao  la  bát  ngát;
     Trên sa mạc trên rừng hoang /  Trên hồ vầng trăng lung linh /  Trên hi vọng chẳng
     vấn vương.
         Với cảm  hứng  nồng  nhiệt với tự do - cảm  hứng thể hiện lòng yêu  nước trong
     lúc tổ quốc của nhà thơ đang bị phát xít Đức chiếm đóng, toàn bộ bài thơ không có
     một chút  ngôn từ nào gợi cảm giác u  buồn,  mặc dù  không  ít lần  Ê-luy-a sử dụng
     các tính từ, các từ ngữ mang sắc thái buồn: tro tàn,  ẩm mốc, lụi dần,... Tất cả  nội
     hàm  biểu  ý,  biểu tình  vốn  có của  các từ ngữ này  đều  được  lọc trong  cái  bể tinh
     thần  lạc quan vô cùng tận  của thi  nhân.  Như thê đóng  góp  lớn  nữa  của thơ Siêu
     thực được ghi nhận ở ngay chính việc chuyển hoá nội hàm ngữ nghĩa của từ.
         Làm thơ bao giờ cũng sử dụng biện pháp nhân hoá cho dù  nhà thơ thuộc bất
     kì thời đại hay phong cách nào đi  nữa.  Ê-luy-a không phải ngoại lệ. Thông thường
     thi  nhản  nhân  cách  hoá  các  sự vật  hiện  tượng  tự nhiên  (Xuân  Diệu  viết về  liễu:
     Rặng liễu diu hiu đứng chịu tang...) chứ hiếm khi nhân cách hoá các khái niệm xã
     hội mang tính trừu tượng. Ê-luy-a làm ngược lại. ông nhân cách hoá tự do.
         Tự do vốn là khái niệm trừu tượng, được khai sinh tư xã hội,  nhằm khẳng định
     yếu tố cá nhân  hoặc cộng đồng khỏi những ràng  buộc bất lợi  hoặc mang lại thua
     thiệt cho cá  nhân  hoặc cộng  đồng đó.  Kể từ khi gọi tự do là  em,  với  hàm ý là  cô
     gái,  thậm  chí là  tình  nhân,  Ê-luy-a  khoác  cho cái  vỏ  âm  thanh  ấy  một  hình  hài,
     người đọc có thể hình dung được.
         Trước  Ê-luy-a,  Franz Kaíka trong truyện của  mình  đã sử dụng  rất thành công
     thủ pháp này.  Pháp luật vốn là khái niệm trừu tượng,  nhưng Katka đặt cho nó một
     cánh cửa trong truyện  Trước cửa pháp luật thì lập tức nó có hình hài và trở thành sự
     vật cụ  thể.  Hơn  ttiế,  Katka  còn  đặt vào đấy một tên lính canh và  một người nông
     dân muốn vào tìm hiểu pháp luật.  Nhờ thế, ngay trước mắt người đọc hiện lên một
     toà nhà pháp luật độc đáo.

                                                                           421
   417   418   419   420   421   422   423   424   425   426   427