Page 115 - Nghề Thủ Công Truyền Thống Việt Nam
P. 115
14 Hồng Lục tế lễ, ngày 15 Khuê Liễu hóa vàng. Vàng
hóa, hóa ở ngôi quán đàu thôn Khuê Liễu gọi là quán Tam
Dương (tên nôm là quán sếu). Nghi thức giỗ tổ đã được
dân gian gói gọn trong câu thành ngữ từ bao đời “Liễu
tràng cúng cơm, Đình Sình làm giỗ, quán sếu đốt vàng”.
Nghề in bằng bản khắc gỗ phát triển kéo dài hàng
mấy thế kỷ. Trước đây phường Kim cổ ở Hà Nội (nay là
phố Hàng Trống và Hàng Gai) có những hiệu: Phúc Văn
Đường, Liễu Văn Đường, Quảng Văn Đường... chuyên in
những truyện thơ nôm để bán. Đến khi chữ quốc ngữ xuất
hiện cùng nghề in bằng chữ đúc dời thì nghề in bản gỗ bị
thu hẹp lại, người ta chỉ dùng để in kinh, in thẻ trong chùa
và in tranh dân gian ngày tết mà thôi.
45. Tổ nghề làm giấy
Từ xưa ở Trung Quốc người ta vẫn coi Thái Luân, một
viên quan nhỏ sống vào thời Đông Hán là người nghĩ ra
cách làm giấy viết, vào khoảng năm 105 sau công nguyên.
Nhưng thực ra giấy đã có từ trước Thái Luân chừng 2 thế
kỷ, Thái Luân chỉ là người đúc kết kinh nghiệm trong dân
gian để làm ra giấy một cách qui mô.
Ở Việt Nam không biết nghề làm giấy có từ bao giờ và
tổ nghề là ai? Sách “Chỉ phả” (sự xuất hiện của các loại
giấy) chép: tiếp thu kỹ thuật làm giấy của Trung Quốc, từ
thế kỷ thứ 3 dân ta đã chế được nhiều loại giấy: giấy bằng
vỏ dó, bằng rêu biển, đặc biệt là giấy bằng trầm hương chế
119