Page 165 - Lý Thường Kiệt
P. 165

KHÁNG TỐNG - ĐÒI ĐẤT


      Đại binh sẽ kéo xuống, tập trung tại Ung Châu, phân phối ra các trại
  trên đuờng thông lộ sang Quảng Nguyên, Lạng Châu, Tô Mậu và Vĩnh An.
  Rồi hai cánh đánh vào Quảng Nguyên và Vĩnh An để chắn đường quân ta
  tập hậu. Xong, sẽ đưa đại quân theo đường chính vào Lạng Châu, qua các
  sông Đào  Hoa  (sông Thương),  sông Nam  Định  (sông  cầu),  sông Lô  (Nhị
  Hà), đến tận kinh thành Thăng Long (X/1).
      Phần  tinh  nhuệ  quân  Tống là  kỵ binh,  kỵ binh  là  quân  xung  phong
  chọc thẳng hàng ngũ địch, dẫn đường cho bộ binh. Kỵ binh lại là "kỳ binh",
  nghĩa là quân đánh những chỗ bất ngờ. Dùng sức ngựa chạy lanh, và qua
  những gai gốc, đá sỏi dễ, kỵ binh có thể, lúc vướng chỗ này, chạy quanh chỗ
  khác, để bọc hai bên hông quân địch.
      Nhưng muốn lợi dụng kỵ binh để phá địch, thì phải làm sao qua khỏi
  vùng hiểm trở, tới chỗ bằng, để cho ngựa xông xáo dễ dàng.

      Bên ta thì thiện chiến về voi. Trong trận Ung Châu, ta đã đem voi theo
  được (VIỰ2), huống chi trên trận địa nước nhà. Thế thủ của ta lại dựa vào
  sông  núi,  các  đèo  hiểm  trở,  các  sông rộng và  sâu.  Từ  trại  Vĩnh  Bình  vào
  Lạng Châu, phải qua dãy núi rậm, có đèo Quyết Lý, ở trên đường từ tỉnh
  Lạng Sơn đến Đồng Mỏ ngày nay, vào khoảng làng Nhân Lý, ở phía bắc ô n
  Châu*^’.  Rồi  lại  phải  qua  dãy  núi  lèn  (đá  không  pha  đất),  đá  đứng  như
  tường, ở giữa có đường đi rất hiểm: đó là ải Giáp Khẩu, tức là ải Chi Lăng, ở
  phía bắc huyện Hữu Lũng thuộc Bắc Giang ngày nay. Cuối đời Đinh, Hầu
  Nhân Bảo, là tướng Tống đã bị chết ở đó; và đời sau, Liễu Thăng là tướng
  Minh cũng bỏ mình ở chốn ấy.
      Đèo ải tuy hiểm, nhưng có thể dùng kỵ binh hoặc vượt qua, hoặc len lỏi
  qua rừng để tránh.  Còn sông sâu rộng,  thì ngựa khó lòng qua nổi.  Phòng
  thủ sông khá dễ; đóng cọc và dùng rào giậu ở bờ nam, cũng đủ ngăn quân
  địch. Vả chăng thủy binh ta, từ đời Ngô, đã lập nhiều chiến công lừng lẫy.
  Thế sông ở trung nguyên lại rất tiện cho thủy chiến. Sáu ngành sông châu
  về Vạn Xuân (Vạn Kiếp). Đó là căn cứ tự nhiên của thủy quân ta. Hoặc phải
  ra cửa Bạch Đằng chắn quân thủy địch, hoặc phải vào sông Đào Hoa (sông
  Thương),  hoặc  phải vào  sông Nam  Định  (sông  cầu),  hoặc  phải  vào  sông


                                     175
   160   161   162   163   164   165   166   167   168   169   170