Page 160 - Lý Thường Kiệt
P. 160

LÝ THƯỜNG KIỆT

         chức cho con và sai lập đền thờ (Vlựcth 11).  Cũng vì binh lính Ung Châu
         theo gương Giàm, chống giữ đến chết không chịu hàng, cho nên những kẻ
         chết ở Ung Châu được tặng hậu hơn mọi nơi khác (7-3, N. Tu, DL 12-4; TB
         273/15a).  Các viên  tri châu, như Nùng Văn Phú  coi châu Thất Nguyên, bị
         quân ta giết, đều được tăng chức (TB 274/3b).

             Sau  trận  tấn  công của  ta,  dân  sự xiêu  dạt,  người  chết không ai  táng.
         Ngày  6  tháng 3,  vua  Tống hạ  chiếu  cho  các châu  Ung,  Khâm,  Liêm  phải
         chôn cất hài cốt các tử sĩ, và bảo các chùa phải lập đàn thủy lục đạo tràng để
         làm chay cho những kẻ thiệt mạng. Các nơi đều tuân mệnh, lập những đàn
         rất long trọng, dùng đến 1.000 vị sư (TB 273/14b). Đối với kẻ bị hại ở Quảng
         Tây mà không con, vua Tống sai lấy người bà con lập hậu;  người ấy cũng
         được thưởng như con thật (9-7, Q. Ho, DL 11-8; TB 277/2b).
             Đối với dân sống sót, vua Tống tỏ lượng khoan hồng: tha thuế, thứ lỗi.
         Vua lại giục các quan địa phương điều tra sự thiệt hại và liệu cách cứu tế<^'.
             Ngày 9 tháng 7, viên coi Liêm Châu tâu rằng: "ở Ung và Liêm, các trị sở

         đã được làm lại. ở  Ung Châu, đã có sương binh giúp. Xin cho dân Khâm và
         Liêm khỏi phải đi vận tải lương thực, và chỉ phải làm việc ở châu nhà mà
         thôi" (Q. Ho, DL 11-8; TB 277/2b).
             Đối  với  thân  sĩ các  nơi bị hại,  vua  Tống cũng biệt  đãi.  Ngày  mồng 8
         tháng 3, có chiếu lục bổ cho những người học giỏi ở ba châu ấy, chứ không
         bắt thi (Q. Ho, DL 11-8; TB 273/15b). Ta còn nhớ rằng chính vì lẽ học giỏi mà
         không được dùng, nên Từ Bá Tường đã phản Tống, xin theo vua Lý. Nhưng
         bấy giờ, mưu gian ấy chưa tiết lộ, cho nên Bá Tường cũng được bổ làm tuần
         kiểm các châu Khâm, Liêm, Bạch. (Vlựcth 2).

             6.  Chiêu dụ khê động
             v ề đời Tống, phần tây Quảng Tây và Quý Châu bấy giờ còn là đất cơ
         mi, nghĩa là không bị chính phủ trung ương đặt quan cai trị. Vùng ấy chia ra
         từng khoảng rộng như một châu, một huyện, dân cư ở dọc những khe hoặc
         thung lũng. Những khoảng ấy gọi là khê hay động. Cho nên gọi tên chung là
         vùng khê động. Mỗi động có tù trưởng, là người thổ dân, tự cai quản như là


                                           170
   155   156   157   158   159   160   161   162   163   164   165