Page 72 - Lịch Sử Văn Minh Thế Giới
P. 72
cắp của các loài vật. Ông không dùng đồ da, khuyên mọi ngƣời
không nên mặc áo lông và chỉ nên đi guốc. Không giống các nhà
thơ khác, thơ ông không ca ngợi phụ nữ và tình yêu, cũng không
nói đến chiến tranh mà thƣờng bàn về những vấn đề triết lí nhƣ
có Chúa không, có kiếp sau không, đời có đáng sống không, có
nên theo những lời phán bảo của Chúa không?
Ông ngang nhiên phủ nhận cả imam, hóa thân của Chúa:
Có kẻ nghĩ rằng imam có tài tiên tri,
Sẽ xuất hiện và làm mọi người ngạc nhiên im lặng.
Nghĩ sai đấy! Chỉ có mỗi một imam là lí trí
Chỉ đường cho ta sáng sáng chiều chiều.
Ông còn lên án các nhà thần học Hồi giáo đã lừa bịp các tín
đồ trong khi thuyết giáo:
Vì những mục tiêu đê tiện, nó đăng đàn, và mặc dầu nó
không tin ở sự phục sinh,
Nó cũng làm cho người nghe run sợ khi nó tả những
cảnh hãi hùng ngày tận thế.
Ông còn phê phán cả xã hội đƣơng thời vì cho rằng trong đó
đầy rẫy những điều xấu xa do con ngƣời tạo nên và do đó cho
rằng giá đừng sinh ra ở đời thì tốt hơn. Do tƣ tƣởng và khuynh
hƣớng sáng tác của ông nhƣ vậy nên ông đƣợc gọi là "Nhà triết
học trong nhà thơ và nhà thơ trong nhà triết học".
Nhƣ vậy tuy Arập là nơi tinh thần Hồi giáo bao trùm tất cả,
nhƣng các nhà thơ, bằng khuynh hƣớng này hoặc khuynh hƣớng
khác, đã thoát khỏi sự ràng buộc của tôn giáo. Ngƣợc lại, tình
hình ấy cũng chứng tỏ rằng lúc bấy giờ Hồi giáo cũng còn tƣơng
(*)
đối khoan dung chứ chƣa khắt khe nhƣ sau này .
Về văn xuôi, nổi tiếng nhất là tập Nghìn lẻ một đêm hình
thành từ thế kỉ X đến thế kỉ XII. Những truyện trong tác phẩm