Page 43 - Lịch Sử Văn Minh Thế Giới
P. 43
vật mà chỉ vẽ một bộ phận tiêu biểu mà thôi, ví dụ, chữ trời chỉ
vẽ một ngôi sao, chữ bò mộng chỉ vẽ cái đầu với hai sừng dài.
Trên cơ sở tƣợng hình, để biểu thị các khái niệm, động tác...
ngƣời ta phải dùng phƣơng pháp biểu ý. Ví dụ, muốn viết chữ
khóc thì vẽ con mắt và nƣớc, đẻ thì vẽ chim và trứng, bò rừng thì
vẽ bò và núi. Lúc đầu, hình cái cày vừa có nghĩa là cái cày, lại
có nghĩa là ngƣời cày. Để phân biệt, bên cạnh hình cái cày thêm
hình gỗ thì có nghĩa là cái cày, bên cạnh hình cái cày có thêm
hình ngƣời thì có nghĩa là ngƣời cày.
Ngƣời ta còn dùng hình vẽ để mƣợn âm thanh. Ví dụ, muốn
biết âm xum thì vẽ bó hành, vì bó hành có âm là xum. Các hình
vẽ chỉ âm tiết còn kết hợp với một số hình khác để phân biệt các
khái niệm. Ví dụ, hình bàn chân kết hợp với âm tiết NA là "đi",
hình bàn chân kết hợp với âm BA là "đứng", chữ hài thanh còn
dùng để biểu đạt nhiều loại từ khác nhƣ giới từ, phó từ... Nhờ có
chữ hài thanh, số chữ tƣợng hình càng ngày càng ít đi. Lúc đầu
có khoảng 2000 chữ, nhƣng đến thời Lagát (thế kỉ XXIX TCN)
chỉ còn lại khoảng 600 chữ.
Chất liệu dùng để viết là các tấm đất sét còn ƣớt và những
cái que vót nhọn. Viết trên đất sét chỉ thích hợp với những nét
thẳng và ngắn; vì vậy, những nét dài đƣợc thay bằng nhiều nét
ngắn và nét cong thì thay bằng nét thẳng. Ví dụ, cái đầu bò đƣợc
viết thành một hình tam giác đỉnh chúc xuống dƣới, phía trên có
2 đoạn thẳng biểu thị hai cái sừng. Đồng thời, do dùng que viết
trên đất sét nên chỗ mới ấn vào thì nét to, chỗ rút bút ra thì nét
nhỏ, do đó các nét đều giống hình cái nêm. Do sự bố trí khác
nhau của các nét ấy mà tạo thành các chữ khác nhau. Loại chữ
này đƣợc gọi là chữ tiết hình tức là chữ hình nêm.