Page 147 - Lịch Sử Văn Minh Thế Giới
P. 147
Năm Thái sơ thứ nhất thời Hán Vũ đế (104 TCN) Trung
Quốc đổi dùng một loại lịch cải cách gọi là lịch Thái sơ. Lịch
này lấy tháng giêng âm lịch làm tháng đấu năm, từ đó loại lịch
này về cơ bản đƣợc dùng cho đến ngày nay. Từ thời Xuân Thu,
ngƣời Trung Quốc đã biết chia một năm thành 4 mùa, 4 mùa có
8 tiết là Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu
Phân, lập Đông, Đông Chí. Trên cơ sở ấy, lịch Thái sơ chia một
năm thành 24 tiết, trong đó có 12 trung khí còn 12 tiết khác gọi
là tiết khí. Thƣờng thì mỗi tháng có 1 trung khí, nếu tháng nào
không có trung khí thì thành tháng nhuận. Từ đó việc bố trí
tháng nhuận đã có quy luật, không tùy tiện nhƣ trƣớc nữa.
Ngƣời Trung Quốc ngày xƣa chia một ngày đêm thành 12
giờ và dùng 12 địa chi (Tí, Sửu...) để đặt tên giờ. Mỗi giờ chia
thành 8 khắc.
Để đo thời gian, đầu tiên, người Trung Quốc dùng một
cải cọc gọi là "khuê" để đo bóng mặt trời, do đó đã xác định
được ngày hạ chí và đông chí làm cho cách tính lịch càng
chính xác. Sau đó, người Trung Quốc lại dùng cái "nhật
quỹ". Đó là một cái đĩa tròn trên mặt có khắc 12 giờ và 96
khấc, đặt nghiêng song song với bề mặt của đường xích
đạo, ở giữa có một cái kim cắm theo hướng bắc nam. Khi
mặt trời di chuyển thì bóng của kim cũng di chuyển trên mặt
đĩa có khắc giờ.
Đến khoảng đời Chu, Trung Quốc đã phát minh ra "lậu
hồ" (bình có lỗ rò) để đo thời gian. Lúc đầu lậu hồ chỉ có
một bình, dưới đáy có lỗ rò. Nước trong bình vơi đến đâu
thì biết lúc đó giờ gì. Để việc đo thời gian được chi li hơn,
về sau người ta dùng một hệ thống bốn năm bình xếp thành
nhiều bậc. Nước từ bình trên cùng nhỏ dần xuống các bình