Page 133 - Lịch Sử Văn Minh Thế Giới
P. 133
này còn đƣợc các nhà Nho đánh giá cao về tác dụng giáo dục tƣ
tƣởng của nó. Chính Khổng Tử đã nói:
"Các trò sao không học Thi? Thi có thể làm cho ta phấn
khởi, có thể giúp ta mở rộng tầm nhìn, có thể làm cho mọi ngƣời
đoàn kết với nhau, có thể làm cho ta biết oán giận. Gần thì có thể
vận dụng để thờ cha, xa thì thờ vua. Lại biết đƣợc nhiều tên
chim muông cây cỏ". (Luận ngữ - Dƣơng hóa).
b) Thơ Đường
Thời kì huy hoàng nhất của thơ ca Trung Quốc là thời
Đƣờng (618-907). Trong gần 300 năm tồn tại, thời Đƣờng đã để
lại tên tuổi của trên 2000 nhà thơ với gần 50.000 tác phẩm.
Cùng với sự thăng trầm về chính trị, thời Đƣờng đƣợc chia
thành 4 thời kì là: Sơ Đƣờng (618-713), Thịnh Đƣờng (713-
766), Trung Đƣờng (766-827) và Văn Đƣờng (827-904). Thịnh
Đƣờng chủ yếu là thời kì trị vì của Đƣờng Huyền Tông với hai
niên hiệu Khai Nguyên (713-741) và Thiên Bảo (742-755). Đây
là thời kì tƣơng đối ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế,
đặc biệt đây là thời kì phát triển rất cao về văn hóa.
Thơ Đƣờng không những có số lƣợng rất lớn mà còn có giá
trị rất cao về tƣ tƣởng và nghệ thuật. Hơn nữa, đến thời Đƣờng,
thơ Trung Quốc cũng có một bƣớc phát triển mới về luật thơ.
Các nhà thơ đời Đƣờng sáng tác theo 3 thể: Từ, cổ phong,
Đƣờng luật.
Từ là một loại thơ đặc biệt ra đời giữa đời Đƣờng, kết hợp
chặt chẽ với âm nhạc. Vì viết theo những điệu có sẵn nên sáng
tác từ thƣờng gọi là điền từ.
Cổ phong là thể thơ tƣơng đối tự do, không bị ràng buộc về
số chữ trong một câu (nhƣng thƣờng là 5 và 7 chữ), số câu trong
bài, về cách gieo vần (có thể gieo cả vần trắc lẫn vần bằng), về