Page 129 - Lịch Sử Văn Minh Thế Giới
P. 129

Phƣơng pháp cấu tạo chữ giáp cốt chủ yếu là phƣơng pháp

        tƣợng hình. Ví dụ:

               Chữ "nhật" (mặt trời) thì vẽ một vòng tròn nhỏ, ở giữa có

        một chấm.


               Chữ "sơn" (núi) thì vẽ 3 đỉnh núi.

               Chữ "thủy" (nƣớc) thì vẽ 3 làn sóng.

               Dần dần do yêu cầu ghi chép các động tác và các khái niệm


        trừu  tƣợng,  trên  cơ  sở  phƣơng  pháp  tƣợng  hình  đã  phát  triển

        thành các loại chữ biểu ý và mƣợn âm thanh.

               Cho đến nay đã phát hiện đƣợc hơn 100.000 mảnh mai rùa


        và xƣơng thú có khắc chữ giáp cốt. Tổng số chữ giáp cốt đã phát

        hiện  đƣợc  có  khoảng  4.500  chữ,  trong  đó  đã  đọc  đƣợc  1.700

        chữ. Chữ giáp cốt đã ghép đƣợc những đoạn văn tƣơng đối dài,


        có đoạn dài tới trên 100 chữ.

               Đến  thời  Tây  Chu  số  lƣợng  chữ  càng  nhiều  và  cách  viết

        càng đơn giản. Chữ viết tiêu biểu thời kì này là kim văn, cũng


        gọi là chung đỉnh văn (chữ viết trên chuông đỉnh). Kim văn từ

        đời Thƣơng đã có nhƣng còn ít. Đến Tây Chu, nhà vua thƣờng

        đem ruộng đất và ngƣời lao động ban thƣởng cho các quý tộc.

        Mỗi lần nhƣ vậy, vua Chu thƣờng ra lệnh đúc đỉnh đồng và ghi


        sự việc ấy lên đỉnh để làm kỉ niệm, do đó kim văn đến thời kì

        này  rất phát  triển.  Ngoài đồ  đồng,  chữ  viết  thời  Tây  Chu  còn

        đƣợc khắc trên trống đá, thẻ tre.


               Các loại chữ viết đầu tiên này đƣợc gọi chung là chữ đại

        triện, cũng gọi là cổ văn. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, do đất

        nƣớc không thống nhất nên chữ viết cũng không thống nhất. Đến

        thời Tần, Lý Tƣ đã dựa vào chữ nƣớc Tần kết hợp với các thứ


        chữ của các nƣớc khác, cải tiến cách viết tạo thành một loại chữ

        thống nhất gọi là chữ tiểu triện.
   124   125   126   127   128   129   130   131   132   133   134