Page 120 - Hai Bà Trưng
P. 120

thuyền  bè  không  dám  đến  gần.  Một  đêm,  thuyền
       phường  chài  đậu  bên  sông,  văng vẳng  nghe  tiếng kêu
       "Thuyên  bay  ô  uế lắm,  nên lui  xuống hạ lưu".  Vua  Lý
       Anh  Tông  biết  chuyện,  sai  người  ra  đón  rưốc  nhưng
       không  đưỢc.  Dân  làng  Đồng  Nhân  châu  (Bãi  Đồng
       Nhân)  bèn  lấy  vải  đỏ,  làm  lễ  đón  được  Hai  Bà  vào.
       TưỢng  Hai  Bà  bằng  đá,  cao  lốn  và  nặng,  đầu  đội  mũ
       trụ,  thân  mặc  áo  giáp,  hai  tay  giơ  cao  lên  tròi,  một
       chân  quỳ,  một  chân  ngả.  Nhà  vua  truyền  chỉ  cho  dân
       làng dựng đền  thò cốt tượng Hai Bà ở bên bò sông vào
       năm  Đại  Định  thứ  ba  (1142),  lại  phát cho  hai  đôi  ngà
       để trang trí hai pho tượng voi thò.
           Trải qua các triều đại,  nhị vỊ anh thư khai quốc đã
       đưỢc phong tặng nhiều tưốc hiệu,  mỹ tự ghi nhận công
       lao của  Hai Bà vối dân, vối nước,  đó là:  "Trinh linh nhị
       phu  nhân" {Trinh là trinh tiết,  chỉ đức sinh thì của hai
       Ngài; Linh là linh thiêng,  chỉ oai linh sau khi hai  Ngài
       mất)  do  vua  Lý  Anh  Tông  (1138-1175)  phong  tặng.
       Năm Trưng Hưng thứ tư (1288) được phong "Chếthắng
       nhị  Trưng phu  nhân"  {Chế thắng  là  quyết  lấy  được.  Ý
       khen  hai  Ngài  đánh  đưỢc  Tô  Định).  Năm  Hưng  Long
       thứ  21  (1313)  bà  Trưng Trắc  được  gia  phong  mỹ  tự  là
       "Thuần  trinh"  (Thuần  nhất  và  Trinh  chính  là  đức  tô't
       đàn bà.  Ý phong khen Ngài có nghĩa  đối vối chồng),  bà
       Trưng  Nhị  đưỢc  gia  phong mỹ tự là  "Hựu  thuận"  {Hựu
       là giúp,  Thuận là không trái đạo. Ý khen bà Trưng Nhị
       giúp  chị  là  thuận  đạo).  Sang  triều  Trần,  lại  được  gia
       phong  mỹ tự là  "Hiển  liệt ch ế thắng thuần  hảo  thuận'.

                                                            121
   115   116   117   118   119   120   121   122   123   124   125