Page 121 - Hai Bà Trưng
P. 121

Năm  Nguyên  Hoà  thứ  nhất  (1533),  thời  nhà  Lê,  hai
       Ngài được sắc "Quảng giáo viên minh linh thạch Trưng
       Vượt Phật",  nghĩa là  Phật Trưng Vương đá thiêng,  giáo
       lý rộng lớn,  viên  mãn và ngời  sáng.  Đời  Chính Hoà  (Lê
       Hy  Tông  1675  -  1705)  có  sắc  phong:  "Lĩnh  Nam  liệt
       khái,  thạch  hoá  chân  dung"  (Đấng  nghĩa  liệt  khẳng
       khái đất Lĩnh Nam,  dung mạo kết tinh thành đá). Tưốc
       hiệu  Phật của  Hai  Bà còn  được ghi lại  trong sắc phong
       năm Vĩnh Thịnh  thứ  6  (1710).  Đến  thời  Quang Trung,
       nhà  vua  không  giữ  danh  hiệu  Phật  mà  gọi  là  "Trưng
       Thánh  Vương"  (Vua  Thánh  họ  Trưng)  đồng  thời  dùng
       những câu ca ngỢi rất đẹp:
           "Quế Giao phỉ chấn  anh  thanh,  thập  hát  thế tầng
       quang ư phả điệp.  Mai Lĩnh mậu chương tuấn tích,  lục
       thập thành kỷ phục ư Phong Đô.  Trạc dương lưu vạn cổ
       thần quan,  hồi cố thọ thiên thu quốc mạch".
           Tạm dịch:

           Miền  Quế Giao vang dậy tiếng anh linh.  Mười tám
       đời  Hùng  Vương  rỡ  ràng  sử  sách;  đất  Mai  Lĩnh  ngời
       sáng công  tuấn  kiệt.  Sáu  mươi  thành  Phong  đô  trả  lại
       non sông. Ánh thần bàng bạc chiếu sáng ngàn đời. Vận
       nưốc tài bồi, vững bền muôn thuỏ.
           Vào  năm  Gia  Long  thứ  18  (1819),  khi  bãi  sông lở,
       nhà  vua  cho  lấy  sở  tập  võ  cũ  tức  là  chỗ  võ  miếu  thuộc
       thôn Hương Viên  (nay là phố Đồng Nhân) làm  nền đền
       gọi  là  Trưng  Thánh  Vương  điện.  Đền  Hai  Bà  toạ  lạc
       trên  khoảnh  đất  rộng  6  mẫu.  Trưốc  đền  là  hồ  bán

       122
   116   117   118   119   120   121   122   123   124   125   126