Page 56 - Diện Mạo Và Triển Vọng Của Xã Hội Tri Thức
P. 56

cô đơn thì có sự gia tăng trong 12-18 tháng đầu và không bị
              tác động gì trong 12-18 tháng sau'.
                  Những  công  trình  đưa  ra  ý  kiến  ngược  lại  như  của
              nhóm  Kraut,  cũng như  những công trình  phản  bác cả  hai
              loại ý kiến trên,  cũng đều là những công trình nghiên  cứu
              râ't công phu và tôh  kém.  Cùng trong chương trình  Dự án
              Internet Thế giới, các nhà nghiên cứu của Đại học Stanford
              đã thực hiện  những công trình  điều tra xã hội học tại  Hoa
              Kỳ, Trung Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản... để rút ra kết luận
              rằng không có bằng chứng nào cho thấy có mốì liên hệ giữa
              việc sử dụng internet với việc hoà đồng xã hội cũng như với
              cảm giác cô đơn của những người sử dụng internet ở những
              nước này.
                  Những  kết  luận  mâu  thuẫn  trên  đây  có  thể  làm  cho
              nhiều người hoang mang. Sẽ xảy ra những trường hỢp: nếu
              chỉ nhận được những thông tin cục bộ và một chiều, thì hoặc
              là có thể có người sẽ tin rằng internet đang làm cho người ta
              cô đơn hơn bao giờ hết, hoặc là có người lại tin rằng internet
              đang khuyến khích khả  năng giao thiệp xã hội của những
              người  sử  dụng nó.  Điều  này  đã  xảy ra  ở Việt  Nam,  khi  có
              người  mặc  dù  chưa  có  được  thông  tin  đầy  đủ  nhưng  vẫn
              khẳng định khả năng làm cho con người trở nên cô đơn của
              internet^.  Thái độ tương tự cũng đã xảy ra ở Việt Nam  đốì



                  1.  Xem  Norman  H.Nie  và  Lutz  Erbring:  “Internet  and  Society:  A
              Priliminary Report”, Sđd, tr.  123-124.
                  2.  Phạm  Thị  Thanh  Tâm:  “Nhũng  thách  thức  trong  xã  hội  thông
              tin”,  trong cuôh  sách;  Những thách  thức của  sự phát  triển  trong xã hội
               thông tin (Bùi  Biên  Hoà chủ biên), Viện Thông tin  Khoa học xã hội,  Hà
              Nội,  2002, tr.  158.

              56
   51   52   53   54   55   56   57   58   59   60   61