Page 52 - Di Tích Lịch Sử
P. 52

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo lớn mạnh, phát triển thành cuộc
      chiến tranh nhân dân và đang ở thế tấn công bao vây quân Minh.
          Sau mười năm chiến đấu gian khổ (1418 -   1428), Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn đã
      giành được thắng lợi hoàn toàn. Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Thuận Thiên, đặt
      tên nước là Đại Việt đổng thời bắt tay vào xâ)' dựng một triều đại phong kiến hưng thịnh.
          Để thiết lập một chính quyền mới sau một thời gian dài đất nước nằm dưới sự
      đô hộ của nhà Minh, Lê Lợi rất chú trọng việc lập pháp và chủ trương việc phòng thủ
      quốc gia một cách tích cực. Nhà nước Lê sơ đã xác định miền Tây Bắc thực sự là vùng
      biên ải quan trọng của lãnh thổ Đại Việt. Mặc dù Lê Lợi đã nhiều lần đem lời tín nghĩa,
      giảng dụ ân cần, hứa sẽ phong cho tước cao,  được hưởng lộc hậu,  nhưng tù trưởng
      Đèo  Cát Hãn quên ân bội nghĩa, đã làm phản, liên kết với Kha Đốn  (Kha Lại), một
      bầy tôi phản nghịch của Ai Lao quấy nhiễu nhân dân nơi biên ải, đánh chiếm vùng
      đất Mường Muỗi (nay là Thuận Châu -  Sơn La). Do hành động phản nghịch của Đèo
      Cát Hãn, năm  1431 vua Lê Thái Tổ đã phái Quốc vương Tư Tê' và Quan Tư Khấu Lê
      Sát đem quân tiến đánh. Sau đó vua Lê Thái Tổ thần chinh đem quần lên châu Phục Lễ
      (châu Ninh Viễn). Đại quần của triểu đình tiến theo đường từ sông Hồng rồi ngược
      sông Đà bằng đường thủy và đường bộ, đánh tan quân phản nghịch Đèo Cát Hãn.
          Sau khi dẹp yên, để răn các tù trưởng cai quản nơi biên giới của Tổ quốc, tháng
      Chạp năm Tân Hợi (tức tháng  1/1432) Lê Lợi đã làm bài văn bia ghi nhớ sự kiện này.
      Văn bia được viết theo thể loại ma nhai khắc trên vách đá Pú Huổi Chõ. Bài thơ thứ
      nhất được khắc trên vách  đá Pú Huổi Chõ,  có tên là Thân chinh  Phục Lễ châu Đèo
      Cát Hãn (Tự mình đi đánh Đèo Cát Hãn ở chầu Phục Lễ), viết bằng chữ Hán theo thể
      ngũ ngôn bát cú. Bài thơ được tạc trong khuôn khổ hình chữ nhật có kích thước l,2m
      X  0,8m, viết theo  chữ  khải  chân  gồm  132  chữ;  đã  được  Lê Quý Đôn  chép vào  sách
       Toàn  Việt thi lục và cũng được chép trong Đại Nam nhất thống chí của triều Nguyễn.
      Nguyên văn của văn bia này như sau:
           “Di địch chi vi biên hoạn,  tự cổ hữu chi,  Hán chi Hung Nô,  Đường chi Đột Quyết,
       ngã  Tây  Việt chi Mang Lễ,  chư man  thị giả,  khoảng do  Trẩn Hổ suy chính, phiên  thần
      quân  thổ,  Cát Hãn  nữu  ư cựu  tập, phụ cố phất thoan,  dư kim xuất sư vãng chinh thủy
       lục tịnh tiến, nhất cử tựu bình, nhân tả nhất luật, khắc chi vu thạch dĩ giới hậu thế man
       tù chi cánh hoá dã vân:
                             Cuồng tặc cảm bô tru
                             Biên dân cửu hệ tô
                             Bạn thẩn tòng cổ hữu
                             Hiểm địa tự kim vô
                             Thảo mộc kinh phong lạc
                             Sơn xuyên nhập bản đổ.
                             Để thi khắc nham thạch
                             Trấn ngã Việt Tây ngung.
                             Tân Hợi quý đông cát nhật
                             Ngọc Hoa động chủ để”.

                              Môt số í>i tícVi lịcti 8vf -  VÀM VtoẮ Việt XAm
                                         c   53  >
   47   48   49   50   51   52   53   54   55   56   57