Page 156 - Di Tích Lịch Sử
P. 156
trì việc phục hưng ngôi chùa. Chùa Đậu vốn thờ Tứ Pháp; vân, vũ, lôi, điện (tức
là mây, mưa, sấm, chớp).
Chùa được xây dựng kiểu “nội công ngoại quốc”. Tam quan chùa là một gác
chuông đẹp, hai tầng tám mái với các đầu đao cong vút. Nhiều bộ phận gỗ được chạm
khắc hình rống, phượng và hoa lá. Tầng trên treo quả chuông đúc năm Cảnh Thịnh
thứ 9 (1801) thời nhà Tây Sơn. Tuy nhiên, hiện nay tam quan đã có những dấu hiệu
của sự hư hỏng và đang được trùng tu lại.
Qua tam quan là một sân gạch rộng, hai bên có hai tòa giải vũ làm nơi nghỉ ngơi
cho khách hành hương. Tiền đường phía trước, nối liển với hai dãy hành lang hai bên
và nhà tổ ở phía sau làm thành một khung vuông bao bọc lấy tòa thiêu hương và điện
thờ Bà Đậu hay nữ thần Pháp Vũ.
Ngoài những giá trị kiến trúc, chùa Đậu còn bảo lưu được nhiều di vật quý.
Cuốn sách bằng đổng có từ thời Sĩ Nhiếp đẩu thế kỉ thứ III (năm 200 - 210) hiện cất
giữ tại chùa cho biết rõ sự tích Phật giáo là từ Ấn Độ du nhập vào Việt Nam. Hai con
chổn đá ở thểm tam quan có niên hiệu thời Trần, đôi rồng đá ở thềm tiền đường,
đến nay đã có hơn 500 năm tuổi; các phù điêu chạm hình tiên nữ đẩu người, mình
chim, những chàng trai cưỡi rồng đánh hổ, các loại gạch đất nung có hoa văn thời
Mạc, thời Lê, hai bộ sách đồng đểu là những hiện vật có giá trị lịch sử cao. ơ chùa
Đậu có khá nhiều bia đá từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII. Trong chùa có chiếc khánh
đồng đúc năm 1774 với bài minh do Phan Trọng Phiên biên soạn, ở đây còn hai tấm
biển gỗ sơn son thếp vàng khắc bài thơ nôm của chúa Trịnh Căn (1682 - 1709) và
chúa Trịnh Cương (1709 - 1729). Ngoài ra, chùa còn lưu giữ một khánh đồng đời Lê
Cảnh Hưng thứ ba mươi ba (1772), một chuông đổng to thời Tây Sơn (Cảnh Trịnh
thứ chín - 1801), hai tấm gỗ tứ thiết sơn son thếp vàng có chạm hai bài thơ của vua
Lê Hy Tông (1680 - 1705) và vua Lê Dụ Tông (1705 - 1719) khi vê' thám chùa và
một số bia đá cổ thời Mạc Sùng Khang (1566 - 1577), Thịnh Đức (1653 - 1657),
Cảnh Hưng (1740 - 1786).
Đặc biệt, nơi đây hiện còn lưu giữ tượng táng của hai vị thiền sư Vũ Khắc Minh
và Vũ Khắc Trường, làm nên một chùa Đậu đầy bí ẩn và độc đáo.
Tục truyền xưa kia, nhân dân quanh vùng thường gọi thiển sư Vũ Khắc Minh là
nhà sư rau, bởi quanh năm thức ăn của ông chỉ duy nhất là rau. Trước khi mất, ông
ngổi vào trong am để tụng kinh, mang theo một chum nước và một chum dấu để thắp.
Ông dặn các đệ tử “sau 3 tháng 10 ngày nếu không nghe thấy tiếng gõ mõ tụng kinh
nữa mới được mở cửa am ra. Nếu thi thể của ta còn nguyên vẹn thì lấy sơn ta bả lên
người, còn nếu đã bị hôi thối thì dùng đất lấp am”. Hai vị thiển sư sau khi đắc đạo đã
để lại Toàn Thân Xá Lợi.
Hai di hài bó sơn ta của hai nhà sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường (đã thay
nhau trụ trì chùa vào đầu và giữa thế kỉ thứ XVII) có thể xem là những “quốc bảo”.
Được phép của Hội đổng Bộ trưởng và Bộ Văn hoá, tháng 5/1983, pho tượng nhà sư
Vũ Khắc Minh được đưa vể Viện Khảo cổ học và được tiến hành đo đạc nghiên cứu và
chụp phim X quang tại bệnh viện Bạch Mai để xác định giá trị.
Một 5ố &Í tícli lịcVi sử - vÃM VioÁ Việt XAm
c 159 >