Page 140 - Di Tích Lịch Sử
P. 140
quan trọng làm nên diện mạo văn hoá truyền thống của vùng đất Kinh Bắc, là nơi ghi
dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc. Từ xa xưa, Cổ Pháp đã được liệt vào
làng “tam cổ”: “Thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ ba c ổ Pháp”. Đất Cổ Pháp là nơi
thắng địa bậc nhất Kinh Bắc, vượng khí, linh thiêng, nơi có thế 8 đầu rồng chầu về
(tương truyền, xưa kia, phía trước cửa đền là một khu rừng Báng, có dòng Tiêu Tương
uốn khúc chảy qua) và nơi đây cũng được cho là nơi phát tích của triểu đình nhà Lý
kéo dài hơn 200 năm.
Khi vua Lý Công ưẩn đăng quang và trở lại thăm quê hương vào tháng 2 năm
Canh Tuất (1010), tại đây, nhà vua đã dừng thuyền rồng để đi thăm các bậc kì lão, yết
lăng Thái Hậu và đo đất làm “Sơn Lăng cấm địa”. Dân làng Đình Bảng đã xây dựng một
ngôi nhà lớn làm nơi nghênh tiếp nhà vua. Khi vua Lý Công uẩn băng hà (1028), Lý
Thái Tông lên ngôi kế vị, đã cho sửa sang lại ngôi nhà xưa và chọn làm nơi thờ tự vua
cha và cũng từ đó nơi đây trở thành nơi thờ tự các vị vua nhà Lý sau khi băng hà. Như
vậy, đển là nơi thờ 8 vị vua nhà Lý là: Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ (1009 - 1028); Lý
Thái Tông (1028 - 1054); Lý Thánh Tông (1054 - 1072); Lý Nhân Tông (1072 - 1128);
Lý Thần Tông (1128 - 1138); Lý Anh Tông (1138 - 1175); Lý Cao Tông (1175 - 1210)
và Lý Huệ Tông (1210 - 1224).
Đển gổm có trên 20 hạng mục công trình, được xây dựng công phu, đắp vẽ chạm
khắc tinh xảo, chia thành 2 khu vực: nội thành và ngoại thành. Khu ngoại thất đến Lý Bát
Đế gổm thủy đình trên hổ bán nguyệt. Đây là nơi để các chức sắc ngày trước ngồi xem
biểu diễn rối nước. Hổ này thông với ao Cả trên, ao Cả dưới và sông Tiêu Tương xưa.
Thủy đình rộng 5 gian có kiến trúc chồng diêm 8 mái, 8 đao cong. Thủy đình đển Lý Bát
Đế từng được Ngân hàng Đông Dương thời Pháp thuộc chọn là hình ảnh in trên giấy
bạc “5 đống vàng” và là hình in trên đổng tiền xu hiện nay. Nhà văn chỉ ba gian chổng
diêm rộng lOOm^ nằm bên trái khu nội thành thờ Tô Hiến Thành và Lý Đạo Thành,
những quan vàn đã có công lớn giúp nhà Lý. Nhà võ chỉ có kiến trúc tương tự nhà văn
chỉ, ở bên phải khu nội thành thờ Lê Phụng Hiểu, Lý Thường Kiệt, Đào Cam Mộc,
những quan võ đã có công lớn giúp nhà Lý. Ngoài ra, ở khu vực ngoại thành còn có nhà
chủ tế, nhà kho, nhà khách và đển vua Bà (thờ Lý Chiêu Hoàng, còn gọi là đền Rổng).
Khu vực nội thành có diện tích là 4.320m^ được kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại
quốc”. Cổng vào nội thành gọi là Ngũ Long Môn vì hai cánh cổng có chạm khắc hình
năm con rồng. Trung tâm của khu nội thành và cũng là trung tâm đến là chính điện.
Chính điện gổm trước tiên là phương đình (nhà vuông) 8 mái 3 gian rộng đến 70m^.
Tiếp đến nhà tiền tế 7 gian rộng 220m^. Tại đây có điện thờ vua Lý Thái Tổ. Phía bên trái
điện thờ có treo tấm bảng ghi lại Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ với đúng 214 chữ, ứng
với 214 năm trị vi của 8 đời vua nhà Lý. Phía bên phải có treo tấm bảng ghi bài thơ nổi
tiếng Nam quốc sơn hà. Sau cùng là Cổ Pháp điện gổm 7 gian rộng 180m^ là nơi đặt ngai
thờ, bài vị và tượng của 8 vị vua nhà Lý. Đặc biệt, phía đông đền có nhà bia, nơi đặt Cổ
Pháp Điện Tạo Bi (bia đển Cổ Pháp). Tấm bia đá này cao 190cm, rộng 103cm, dày 17cm,
được khắc dựng năm Giáp Thìn (1605), do tiến sĩ Phùng Khắc Khoan soạn văn bia, ghi
lại sự kiện lịch sử nhà Lê xây dựng lại đền và ghi công đức của các vị vua triều Lý.
Một »ố &i ticVi lỊclt sử - VẲM VioÁ Việt Níkm
c 1« )