Page 133 - Di Tích Lịch Sử
P. 133

lộ  182 đi chừng 12km là tới chùa Dâu.  Với vị trí thuận lợi đó, chùa Dâu có tiếm năng
        rất lớn trong việc thu hút khách thập phương đến tham quan bởi ngôi chùa nằm trong
        một vùng đất giàu truyền thống văn hoá bậc nhất của cả nước, là nơi hội tụ những giá
        trị lịch sử vàn hoá lâu đời của dần tộc. Năm  1962, chùa đã vinh dự được Nhà nước
        công nhận là di tích cấp Quốc gia, góp phần tôn vinh hơn nữa những giá trị của ngôi
        chùa này.
            Chùa  Dầu tọa lạc  ngay trung  tâm  của khu  di  tích  lịch  sử văn  hoá  tiêu biểu và
        phong phú bậc nhất của quê hương Kinh Bác. Nơi đây là thủ phủ của quận Giao Chỉ
        (Giao Châu) -  trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá; trung tâm Phật giáo cổ xưa nhất
        của nước ta, bao gổm thành cổ Luy Lâu, đển thờ và lăng mộ Sỹ Nhiếp, hệ thống chùa
        tháp,  đển  đài, cung điện,  lầu gác, bến bãi,  gốm  cổ,  phố  chợ sẩm  uất của đô  thị Luy
        Lâu,... là chứng tích một thời kì dài hàng chục thế kỉ trước và sau Công nguyên.
            Chùa Dâu là nơi giao lưu của hai luồng văn hoá Phật giáo từ Ấn Độ sang và từ
        Trung Quốc xuống,  chủ yếu bằng đường thủy theo  dòng sông Dâu.  Vào  buổi  đầu
        Công nguyên,  các  tăng nhân Ấn Độ  đã tới  đây truyền bá đạo  Phật đẩu tiên.  Cuối
        thế kỉ VI, nhà sư s. Vinitaruci và lập nên một phái thiển ở Việt Nam. Chùa Dâu trở
        thành trung tầm của phái thiền thứ nhất ở Việt Nam, nơi trụ trì của nhiểu cao tăng
        Việt Nam,  Ấn  Độ  và Trung  Quốc  đến  để nghiên  cứu,  biên  soạn,  phiên  dịch  kinh
        Phật, đào tạo tăng ni.
            Chùa  được  khởi  công xây dựng  năm  187  và  hoàn  thành  năm  226.  Những  tài
        liệu,  cổ  vật  còn lại  ở  chùa  Dâu,  đặc  biệt là bản  khắc  c ổ  Châu  Pháp  vân  Phật  bản
        hạnh, cùng kết quả nghiên cứu vê' lịch sử Phật giáo Việt Nam của các nhà sử học và
        Phật học đã khẳng định “Chùa Dầu là tổ đình của Phật giáo Việt Nam”. Chùa được
        xày dựng lại vào năm  1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỉ tiếp theo. Vua Trẩn
        Nhân  Tông  đã  sai  Trạng  nguyên  Mạc  Đĩnh  Chi  về kiến  thiết  lại  chùa  Dâu  thành
        “chùa trám gian,  tháp  chín tầng,  cầu chín  nhịp”.  Trải qua bao thăng trầm và chiến
        tranh tàn phá nhưng chùa Dầu với tháp gạch cao sừng sững, với tòa ngang, dãy dọc
        nguy nga, cổ kính vẫn còn đó.
            Chùa Dâu gắn với huyền tích Phật mẫu Man Nương và tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp
        Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện), là biểu hiện sinh động cho sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
        tín  ngưỡng dân gian của người Việt với Phật giáo khi mới  du  nhập.  Tương truyền,
        nàng Man Nương, cô gái Kẻ Mèn (nay thuộc xã Hà Mãn, Thuận Thành) dốc tâm học
        đạo Phật, một hôm nằm ngủ quên, có nhà sư vô tình bước qua mà bỗng nhiên mang
        thai.  Sau khi  sinh,  nàng đem  con  đến trả cho  sư.  Nhà sư  mang đứa bé  đến  gốc cây
        dung thụ gõ cây đọc kệ. Cây dung thụ bỗng nứt toác ra ôm đứa bé vào lòng. Rổi nhà
        sư lại cho Man Nương cây tích trượng và dặn khi nào có đại hạn cứ cắm xuống đất và
        phát nguyện thì sẽ có nước để cứu dần. Thế rổi vào năm Giáp Tý, mưa bão đánh đổ
        cầy dung thụ trôi theo dòng sông Dâu vê' đến thành Luy Lâu thì không trôi được nữa.
        Man Nương ra sông rửa tay, bỗng dưng cây dập  dinh  như con  tìm thấy mẹ, và khi
        Man Nương ném dải yếm ra thì cầy dung thụ trôi ngay vào bờ. Cũng khi ấy, Sỹ Nhiếp
        trong thành Luy Lâu được mộng phải tạc cầy dung thụ thành tượng Tứ Pháp để thờ.


                               Một số t>i ticVi lịclt svr -  VẰM VioÁ Việt NAm
                                          C  l 3  6  )
   128   129   130   131   132   133   134   135   136   137   138