Page 8 - Công Nghệ Sinh Học Cho Nông Dân Quyển 7
P. 8
hoang dại. Vai trò sáng tạo của chọn lọc nhân tạo là tích
luỹ những biến dị nhỏ xuất hiện riêng rẽ thành những
biến đổi lớn sâu sắc, phổ biến cho cả một giống.
Theo phương pháp nhân giông truyền thống, các nhà
làm giông từ xửa nay vẫn sản xuất cây giông bằng kỹ
thuật giâm cành, chiết cành hoặc giữ lại hạt để gieo. Với
kỹ thuật giâm cành và chiết cành, các nhà vườn gặp phải
khó khăn lớn là hệ số nhân giống thấp và chất lượng cây
giống chỉ tốt trong một hai năm đầu. Nếu vài năm liên
tiếp giữ giông theo cách này, giống bị “già” dẫn đến
hiện trạng thoái hóa giống, hậu quả là cây trồng dễ
nhiễm bệnh, năng suất thu hoạch giảm sút và chất lượng
sản phẩm lại kém. Với kỹ thuật giữ hạt (ở một số giống)
để gieo trồng thì đạt được sự đa dạng về kiểu hình (màu
sắc hoa, chất lượng trái) nhưng nhược điểm là không
kiểm soát được sự đồng nhất và như thế chúng ta không
thể mỏ được thị trường lớn để xuất khẩu sản phẩm cây
trồng nói chung và hoa kiểng nói riêng.
Nuôi cấy mô là thuật ngữ dùng để chỉ quá trình nuôi cấy
vô trùng In-vitro các bộ phận tách rời khác nhau của thực
vật. Kỹ thuật nuôi cấy mô dùng cho cả hai mục đích nhân
giống và cải thiện di truyền (ví dụ: giống cây trồng), sản
xuất sinh khối các sản phẩm hóa sinh, bệnh học thực vật,
duy trì và bảo quản các nguồn gen quý... Các hoạt động này
được bao hàm trong thuật ngữ công nghệ sinh học. Thuật
ngữ nhân giống In-viưo (In-vitro propagation) hay còn gọi
7