Page 54 - Các Chuyên Đề Về Nguy Cư Sức Khỏe
P. 54
ngoài da cao trong cộng đồng là hậu quả của thiếu nước sạch và vệ sinh thân
thế của đồng bào. Các nghiên cứu của Trương Minh Hương, Đỗ Hàm, Nguyễn
Tuấn Khanh 1997 - 2007 cho thấy tỉ lệ các bệnh da thường là trên 20% (tỉ lệ các
bệnh da trong cộng đồng bình thường khoảng 14%).
Các phòng ỏ thường là ở phía trên hố để phân cùng vối tập quán đun bếp
trong nhà sẽ làm cho nhiều loại hơi khí độc gia tăng (C02, NH3, H2S). Các loại
vật nuôi trong nhà của đồng bào sẽ là túc chủ, nơi cư trú, tồn tại, phát triển của
nhiều loại côn trùng truyền bệnh nguy hiểm (muỗi, ve, bọ chét...). Do khí hậu
và thời tiết cũng như các điều kiện sinh thái miền núi thuận lợi cho các vi sinh
vật, côn trùng phát triển nên những tập quán ăn ở như trên sẽ là lý tưởng cho
các vector, mầm bệnh duy trì khả năng gây hại, gây dịch bệnh như một ổ dịch
thiên nhiên lưu hành quanh năm. Điều này một phần lý giải tại sao có nhiều ổ
bệnh thiên nhiên hiện hữu tại các vùng miền núi nước ta như sốt rét,
Leptospira...
Một vấn đề củng đáng lưu tăm là sự hiện diện của một số chất độc môi
trường tại các mỏ, thung lủng của miền núi nước ta. Tại các thung lũng, đặc biệt
là ở một số khu rừng rậm, ít người và động vật hoạt động thường xuyên có thể
phát hiện thấy các chất CH4, C02... với hàm lượng ở mức độc hại gây chết người.
Các mỏ kim loại độc hại có thể phát tán một sô" chất độc vào môi trường không
khí, đất, nước. Các chất độc sẽ từ môi trường phân tán đi khắp nơi và ảnh
hưởng tới sức khoẻ dần cư. Nghiên cứu về độc chất và bệnh nhiễm độc ở nhiều
khu mỏ tại miền núi của các tác giả Nguyễn Minh Ngọc, Đỗ Hàm, Nguyễn Ngọc
Anh... cho thấy hàm lượng một sô' chất độc như chì, asen, cadimi... trong môi
trường luôn cao hơn mức cho phép, nhiều trường hợp nhiễm độc đã xảy ra. Tại
các mỏ chì, kẽm, mangan... thường xuyên có trẻ em, người dân bị thâm nhiễm
hoặc nhiễm độc phải điểu trị ở bệnh viện hoặc các cơ sở y tê tư nhân.
ề T X • • V • •
Hiện nay một số vùng, người nông dân đã dần chuyển đổi sản xuất truyền
thống theo hướng thị trưòng và nhiều trang trại cây ăn quả đã hình thành, vì
vậy vấn đê' sử dụng hoá chất làm phân bón và bảo vệ thực vật cũng đang dần
dần trở nên bức xúc. Các loại trái cây, rau hàng hoá đã được ghi nhận là có dư
lượng hoá chất độc hại ở nhiều nơi. Nhiều mẫu rau người dân sử dụng hóa chất
bảo vệ thực vật vối nhiều chủng loại. Tác giả Trần Văn Phùng, Đỗ Hàm,
Nguyễn Tuấn Khanh (2007) cho biết: có mẫu rau xét nghiệm cho kết quả dương
tính với 18 loại hóa chất bảo vệ thực vật, nhiều mẫu quả dương tính vớì 8 loại
hóa chất bảo vệ thực vật độc hại vẫn được lưu hành, tiêu thụ tại các chợ của
ỉ • • I • • 9 • • T
khu vực trung du và miền núi.
3. NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
Khi môi trường khu vực nào đó bị ô nhiễm bởi các loại độc hại dù là từ
nguồn gốc chất thải sinh hoạt của môi trường sống hay sản xuất, thì sức khoẻ
trong quần thể nhân dân cũng bị ảnh hưởng và có liên quan đến các yếu tố tiếp
xúc hoặc stress môi trường. Đây là một mối quan hệ hữu cơ cần được xác định do:
54