Page 53 - Các Chuyên Đề Về Nguy Cư Sức Khỏe
P. 53
cho thấy có 70% đến 80% người dân miền núi chưa bao giờ nhìn thấy hoặc nghe mô
tả kỹ vê' công trình xử lý phân kiểu tự hoại hoặc bán tự hoại. Giao thông không
thuận lợi làm cho khó khăn vể kinh tê của đồng bào lại càng tăng lên.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Tú, Nguyễn Huy Nga... (2007) trên 20
tỉnh thuộc 8 vùng sinh thái cho biết xác xuất có nhà tiêu hợp vệ sinh ỏ các hộ
gia đình ngưòi dân tộc thiểu số thấp hơn 12 lần so với các hộ người Kinh. Các
tác giả cũng lý giải là do đồng bào Kinh tuy cùng sổng ở trên địa bàn đó nhưng
có sự giao lưu nhiều hơn và học hỏi được nhiều hơn, nên dễ tiến bộ hơn. Tỷ lệ có
nhà tiêu hợp vệ sinh, nhà tiêu chìm có ổng thông hơi... ỏ các vùng Đông Bắc,
Tây Bắc dưới 10%. Trong số hộ có nhà tiêu thì tĩ lệ hợp vệ sinh cũng rất thấp
(Đông Bắc có 10,1%, Tây Bắc có 6,2%).
2.2. Trình dộ dân trí thâp, nhiều phong tục tập quán lạc hậu còn tồn tại
Do tồn tại nhiều tập quán không hợp vệ sinh từ lâu đời, nền dân trí thấp
nên những bất cập về vệ sinh môi trường rất khó giải quyết. Tập quán nuôi gia
súc dưới gầm sàn và hàng trăm thứ phế thải đều phơi bày dưới sàn nhà, chăn
thá rông hầu hết các loại gia súc nên các chất ô nhiễm bao gồm cả hoá học và
sinh vật học luôn tồn tại ở mức cao trong môi trường sống. Hầu hết các gia đình
người H’Möng, Gia Rai không xử lý phân hoặc xử lý không hợp vệ sinh (Đỗ
Hàm, 1997; Nguyễn Thị Hồng Tú, Nguyễn Huy Nga, 2007). Người miền núi
thường sử dụng phân bón hữu cơ không theo một quy chuẩn nào mà sử dụng
tuỳ hứng, thậm chí là không ủ (cả phân chuồng và phân bắc) do vậy nguy cơ
mất vệ sinh, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đỗng là rất cao. Các nghién cứu của
Phùng Thanh Vân, Nguyễn Tất Hà, Nông Thanh Sơn, Nguyễn Thị Mai, Mai
Đình Đức... (2001- 2006) cho thấy ô nhiễm môi trường do tập quán xử lý phân
người, gia súc của đồng bào miền núi từ nhiều đòi nay đang là nguy cơ lớn đối
với sức khỏe cộng đồng. Phân người và gia súc dưới gầm sàn nhà không những
là môi trường thuận lợi cho các côn trùng gây hại như ruồi, nhặng... phát triển,
phát tán mầm bệnh ra khắp các khu vực xung quanh mà còn là nơi thuận lợi
cho sự tồn tại của nhiều vi sinh vật gây bệnh. Trứng nhiều loại giun sẽ tồn tại
trong phân nhiều tháng thậm chí cả năm nếu không được sử lý hợp vệ sinh
(Phạm Thị Hiển, 1997; Hoàng Văn Đảo, 2006; Phạm Trường Thọ, 2007). Đây là
những nguyên nhân làm cho bệnh nhiễm trùng trong cộng đồng các dân tộc
miền núi luôn cao so với các nơi khác. Phân người và gia súc chứa nhiều chất
hữu cơ độc hại như NH3, H2S, N 02, N 03... nếu không được xử lý. Các chất này
sẽ phân hủy từ từ và gây ô nhiễm môi trường liên tục suốt ngày này qua tháng
khác. Các chất hữu cơ độc hại là nguyên nhân gây nên nhiều rốì loạn bệnh lý ở
mũi họng, đưòng hô hấp trong cộng đồng các dân tộc miền núi, đặc biệt là ngưòi
già và trẻ em.
Hiện tượng thiếu nước dùng cho ăn uống và sinh hoạt ở vùng cao là nguy
cơ lớn gây mất ổn định về vệ sinh môi trường. Do thiếu nưốc nên đồng bào có
tập quán tận dụng nguồn nưốc không hợp vệ sinh và quá tiết kiệm nưốc. Điểu
này sẽ làm cho sự nhiễm bẩn môi trường và con ngưòi tăng lên. Tỉ lệ các bệnh
53