Page 242 - Chính Sách Thương Mại Đối Với Sự Phát Triển
P. 242

Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

                  Đối với đối tượng sử dụng hệ thống thông tin (DN và
            các tổ chức  hỗ  trợ  DN),  công  việc  đòi  hỏi  sự  hợp  tác  của

            DN là chủ động đặt hàng về thông tin và đưa ra những yêu
            cầu trợ giúp cụ thể khi tiếp cận thị trường thế giới.
                  DN  và  các  tổ  chức  hỗ  trợ  cũng  cần  tích  cực  tham
            gia  vào  các diễn đàn trao đổi về thâm nhập thị trường, về
            rào cản TM đối với từng mặt hàng. Chẳng hạn, những hoạt
            động của Hiệp hội dệt may và Hiệp hội thuỷ  sản  của  Việt
            Nam trong thời gian vừa qua có thể là những ví dụ tốt trong
            việc xây dựng hệ thống thông tin ngành hàng, thông tin về
            thị trường và rào cản TM. Mặc dù ban đầu các hiệp hội này
            tương đối bị động với  những  phản  ứng  từ  thị  trường  Hoa
            Kỳ,  Liên  minh  châu  Âu  song  khi  mà  nhận thức  của  Chủ
            tịch  hiệp  hội  và  các  thành  viên  đã  rất  rõ  ràng  rằng  các
            DN  trong  ngành  cần  hợp  tác  để  vượt  qua  các  rào  cản  và
            trở  ngại  và  nâng cao  năng  lực cạnh tranh thì việc trao  đổi
            thông tin, hợp tác nâng cao năng lực đã trở nên rất tích cực
            chủ động. Hàng loạt các diễn đàn trao đổi,  các  yêu cầu  về
            thông tin thị trường đã được DN chủ động đặt hàng với hiệp
            hội.  Mối  liên  kết  giữa  hai  hiệp  hội  với  các  DN  trong
            ngành  và  các  cơ quan quản lý nhà nước đã ngày càng chặt
            chẽ  hơn.  Chủ  tịch  hiệp  hội  là  những người  năng  động  và
            trực tiếp gắn kết lợi ích với ngành. Tuy nhiên, việc duy trì
            cơ chế trao đổi thông tin, tiến tới xây dựng hệ thống cơ sở
            dữ  liệu  như  đề cập tới ở trên còn  chưa đạt  yêu cầu bởi vì
            còn thiếu sự đảm bảo về nguồn lực thực hiện.

                  Hiện nay, các khía cạnh pháp lý về quản lý chất lượng
            SP do cơ quan Tiêu chuẩn và Chất lượng (STAMEQ) thuộc
            Bộ  Khoa  học  và  Công  nghệ  ban  hành.  Việc  quản  lý  tiêu


                                        242
   237   238   239   240   241   242   243   244   245   246   247