Page 140 - Chính Sách Thương Mại Đối Với Sự Phát Triển
P. 140
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
2000 thường sử dụng và luôn được bảo hộ chặt chẽ. Đây là
một loại hàng rào phi thuế (NTBs) rõ ràng vì việc nhập khẩu
không dựa trên cơ sở cấp phép tự động và đôi khi nó có tác
dụng như biện pháp cấm nhập khẩu. Năm 2001, Quyết định
46 và Thông tư 11/2001/TT-BTM ngày 18/4/2001 hướng dẫn
chi tiết thực hiện Quyết định 46 đã xây dựng lộ trình loại bỏ
hạn chế định lượng nêu trên. Theo đó, từ năm 2000 đến 2002,
hầu hết những hạn chế định lượng không phù hợp với quy định
của WTO đã bị loại bỏ. Điều này có nghĩa là nước ta đã tiến
một bước căn bản trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế.
Về hỗ trợ đẩy mạnh xuất khẩu, Chính phủ đã ra Quyết
định số 195/1999/QĐ-TTg ngày 27/9/1999 về việc lập, sử
dụng và quản lý Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Quỹ này được sử
dụng vào các mục đích như: hỗ trợ lãi suất ngân hàng để
mua hàng nông sản xuất khẩu khi giá cả thị trường thế giới
giảm; dự trữ hàng nông sản để chờ xuất khẩu; hỗ trợ tài chính
có thời hạn đối với một số mặt hàng xuất khẩu bị lỗ do thiếu
sức cạnh tranh, hoặc gặp rủi do khách quan. Tuy nhiên, sau
khi Việt Nam gia nhập WTO, những hỗ trợ trực tiếp cho xuất
khẩu như vậy đều bị cấm. Do vậy, gần đây Chính phủ đã
quyết định bãi bỏ Quỹ hỗ trợ xuất khẩu này.
Một trong những vấn đề nữa của chính sách phi quan
thuế của Việt Nam đó là vấn đề về quyền kinh doanh. Thực
chất, nó gắn liền với quyền XNK và quyền được chào bán và
bán SP tại thị trường. Trước đây, quyền kinh doanh chỉ nằm
trong tay một số DN của nhà nước được Bộ thương mại cấp
phép mới có quyền XNK. Quyền kinh doanh nhập khẩu đã
được nới lỏng đáng kể trong những năm vừa qua. Các DN có
140