Page 137 - Chính Sách Thương Mại Đối Với Sự Phát Triển
P. 137
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011
và 117 nhóm mặt hàng được điều chỉnh giảm thuế. Ví dụ tôn
mạ kim loại và tôn sơn màu tăng từ 10% lên 12%, thép cán
nguội tăng lên 7%... hàng điện tử, điện lạnh dân dụng có mức
thuế suất 40%; 50% giảm xuống 30%; 40%; xe máy nguyên
chiếc giảm từ 100% xuống 90%. Một số mặt hàng giảm
nhiều so với mức thuế suất hiện hành (từ mức 20%-40%
xuống 0%-5%) là những vật tư chuyên dùng trong nước chưa
sản xuất được.
Trong khuôn khổ hợp tác khu vực và song phương,
cũng như thực hiện cam kết trong WTO, các dòng thuế XNK
của Việt Nam phải có những chính sách cắt giảm mạnh mẽ.
Vấn đề chủ yếu hiện nay của Việt Nam là tận dụng những
“dư địa” đàm phán và trong phạm vi, khuôn khổ WTO cho
phép xây dựng được một cơ cấu thuế quan hiệu quả, đảm bảo
lợi ích quốc gia, phục vụ các mục tiêu đã định về bảo hộ và
phát triển.
b) Công cụ phi thuế quan:
Công cụ phi quan thuế ở nước ta thực sự đã có tiến bộ
mang tính đột phá cùng với những chuyến biến quan điểm về
tổ chức và quản lý thương mại từ những năm đầu của thời kỳ
"Đổi mới". Trước năm 1997, cơ chế cũ về quản lý xuất khẩu
còn rất cứng nhắc, DN không có sự tự chủ trong hoạt động
kinh doanh thương mại, một số DN nhà nước có độc quyền,
đặc quyền thâu tóm và lũng đoạn các nguồn hàng XNK. Năm
1998, cơ chế quản lý XNK đã thay đổi cơ bản với việc ra đời
nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 quy định thi hành
luật thương mại về hoạt động XNK, gia công, đại lý hàng hóa
với nước ngoài cho phép các DN trong nước được XNK hàng
hóa phù hợp với lĩnh vực kinh doanh trong giấy phép kinh
137