Page 139 - Chính Sách Thương Mại Đối Với Sự Phát Triển
P. 139
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011
giá hải quan, hiệp định về giám định kiểm tra hàng hoá
trước khi xuất khẩu, hiệp định về quy tắc xuất xứ, hiệp định
về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ và các hiệp định khác. Bộ luật sửa đổi này đã
mang lại những đổi mới và tiến bộ trong các thủ tục hải
quan đặc biệt là các thủ tục thông quan điện tử (hiện tại
đang được khuyến khích). Một vấn đề khó khăn là thực thi
các quy định về định giá hải quan phù hợp với WTO. Chúng
ta cũng đã có nhiều nỗ lực củng cố khả năng và nâng cấp
thiết bị để vượt qua các khó khăn trên. Nhưng Việt Nam vẫn
cần nhiều hỗ trợ hơn nữa về kĩ thuật, để có thể thực thi hiệu
quả các phương pháp định giá hải quan, tuân thủ đầy đủ các
yêu cầu của hiệp định.
Theo cam kết trong WTO, Việt Nam duy trì 2 nhóm
hàng hóa chính thuộc diện quản lý định lượng bao gồm:
(i) Danh mục các mặt hàng cấm XNK: Là những mặt
hàng có ảnh hưởng tiêu cực đối với các vấn đề xã hội, văn
hóa, chính trị, an ninh và môi trường. Tuy vậy, CSTM của ta
cũng không hoàn toàn nhất quán với tiêu chí đó. Mặt hàng xe
đạp, xe mô tô hai, ba bánh cũ và một số loại hàng hóa tiêu
dùng đã qua sử dụng vẫn được liệt kê trong danh mục nêu
trên. Lý do căn bản trước hết nhu cầu bảo hộ các ngành hàng
trong nước, hạn chế tiêu dùng SP không đủ chất lượng nhưng
đồng thời cơ chế quản lý hiện nay bằng các tiêu chuẩn về môi
trường, kỹ thuật không ngăn chặn hữu hiệu việc nhập khẩu
các mặt hàng này.
(ii) Danh mục mặt hàng nhập khẩu có giấy phép: Chính
là các mặt hàng thuộc danh mục có ảnh hưởng đến "cân đối
lớn với nền kinh tế quốc dân" mà các cơ chế XNK trước năm
139