Page 109 - Chính Sách Thương Mại Đối Với Sự Phát Triển
P. 109
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011
địa của ô tô sản xuất tại Việt Nam rất thấp. Từ năm 2002 đến
2005, bãi bỏ các quy định cho phép lắp ráp xe dạng SKD và
CKD1, xe ô tô sản xuất tại Việt Nam theo 2 hình thức CKD
và IKD. Từ năm 2005, Bộ Tài chính ban hành biểu thuế mới,
theo đó quy định cách tính thuế mới không dựa trên bộ linh
kiện, mà theo các chi tiết và linh kiện đơn lẻ. Việc làm này
đồng nghĩa với việc các quy định về tỷ lệ nội địa được bãi bỏ,
đánh dấu sự ra đời của ngành CNHT ô tô.
Theo thống kê gần đây, số lượng các nhà cung cấp chỉ
khoảng 60 công ty. Khoảng gần 30 công ty là các ty có vốn
ĐTNN. Các công ty này đầu tư vào Việt Nam theo lời mời
của một số công ty lắp ráp ô tô để cung cấp một số linh phụ
kiện cho ngành lắp ráp. Đây là những công ty có kinh nghiệm
trong ngành CNHT ô tô, họ trực thuộc hệ thống nhà cung cấp
của các công ty ô tô tại nước ngoài. Các công ty này cũng chỉ
sản xuất tại Việt Nam những chi tiết có hàm lượng lao động
cao, SP tương đối cồng kềnh, có thể sử dụng chung cho toàn
bộ ngành ô tô như: lốp, ắc quy, ghế, dây điện, bàn đạp phanh.
Một số SP CNHT ô tô Việt Nam có khả năng xuất khẩu, các
SP này nằm trong chiến lược sản xuất toàn cầu của các công
ty đa quốc gia. Các công ty của Việt Nam có số lượng nhỏ,
từng là các công ty cơ khí, sản xuất chất dẻo, nhựa, trình độ
công nghệ kém, không có kinh nghiệm trong ngành ô tô. Các
công ty này hầu hết chưa đủ khả năng cung cấp một SP hoàn
chỉnh cho ngành lắp ráp. Họ chủ yếu cung cấp các bán linh
kiện, hoặc nguyên liệu phục vụ cho việc sản xuất linh kiện.
SP không có hàm lượng kỹ thuật cao.
Sự yếu kém về năng lực sản xuất CNHT ngành ô tô thể
hiện cả về chất lượng SP, giá và tiến độ giao hàng. Hơn nữa
109