Page 110 - Chính Sách Thương Mại Đối Với Sự Phát Triển
P. 110
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
Việt Nam chưa có đầy đủ hạ tầng cần thiết để phát triển
CNHT ô tô, điều này gây trở ngại cho các sản xuất SP CNHT
toàn cầu muốn đầu tư hoặc liên kết đầu tư. Các yếu tố khác
bất lợi cho CNHT ô tô Việt Nam là tình trạng thiếu nguyên
liệu, CN khuôn mẫu kém phát triển…
Bên cạnh đó, ngành CNHT ô tô còn thiếu hệ thống
thông tin để hỗ trợ trong việc tìm kiếm, hợp tác và phát triển
SP. Một số công ty lắp ráp cho biết, khi tiến hành đầu tư tại
Việt Nam họ đã rất nỗ lực tìm kiếm các công ty sản xuất linh
phụ kiện nội địa để vừa có thể tăng cạnh tranh về giá, vừa
đảm bảo thực hiện cam kết phát triển CNHT. Nhưng họ đã
không thể tìm kiếm được các thông tin về ngành do Việt Nam
chưa có một hệ thống cơ sở dữ liệu về CNHT ô tô. Vì vậy,
các SP CNHT Việt Nam gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị
trường nội địa là những công ty lắp ráp ô tô. Hơn nữa, trong
kế hoạch hợp tác để nâng cấp hệ thống cung cấp nội địa, các
công ty lắp ráp cũng không thể tìm thấy hoặc không biết
được năng lực của nhà sản xuất để có thể hợp tác phát triển.
Theo chiến lược phát triển ngành CN ô tô Việt Nam
được ban hành từ năm 2004, các DN sản xuất ô tô được
hưởng nhiều ưu đãi về thuế như thuế thu nhập DN để các DN
này tăng dần tỷ lệ nội địa hoá sản xuất linh kiện, phụ tùng.
Các DN ĐTNN sản xuất ô tô cũng có nhiều lợi thế khác do
chính sách thuế rất cao đánh vào xe nhập khẩu nguyên chiếc.
Tuy nhiên, trên thực tế, tỉ lệ nội địa hoá mà các DN thực hiện
đều rất thấp. Tính đến thời điểm tháng 11/2008, theo kết quả
kiểm tra mà Bộ Tài chính công bố, tại công ty Toyota Việt
Nam, tỉ lệ nội địa hoá bình quân là 7% giá trị xe trong khi
theo giấy phép đầu tư cấp lần đầu thỉ tỉ lệ nội địa hoá phải đạt
110