Page 249 - Bí Quyết Thi Đậu THPT Quooac Gia Môn Văn
P. 249
c. C hi tiết 3: N gười m ẹ k h ẳ n g đ ịn h trách n h iệm và bổn p h ậ n củ a
bản thân.
Đôl diện trước tòa án, chị đưa ra lời cầu xin tưởng chừng như vô lí nhưng nếu
xét cho cùng trong tâm hồn người mẹ là hoàn toàn hợp lí. Chị van xin trước tòa:
“Con lạy quý tòa..., Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng
bắt con bỏ nó”. Lời van xin của chị xuất phát từ trái tim người mẹ, vì chị hiểu
rằng trên con thuyền lưới vó, không thể nào, không có sự hiện diện của một
người đàn ông, họ là chỗ dựa đê chông đỡ vì nghề lưới vó thật lam lũ khó nhọc
và chị nói: “Các chú đâu có phải là người làm ân..., cho nên các chú đâu có hiểu
được cái việc của người làm ăn lam lủ khó nhọc..”. Và chị nhấn mạnh, trên
chiếc thuyền ấy, có khi gặp phong ba bão tô', khắc nghiệt của thiên nhiên thì
một mình người đàn bà trên thuyền làm sao chông chọi nổi để được bám với
nghề, sông với nghề để nuôi con, là thể hiện ý thức trách nhiệm, bổn phận của
người mẹ rất cao. Cũng trước tòa án, chị đưa ra một suy nghĩ, nhằm nói lên bổn
phận của người mẹ sống bằng nghề lưới vó, cần phải làm gì và trách nhiệm
người mẹ phải hiểu thế nào để được gắn bó với nghề mà nuôi con. Chị nói: “ông
trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con rồi nuôi con cho dến khi khôn lớn cho
nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con, chứ
không thể sống cho mình như ở trên đất dược”. Nhà văn đi sâu vào đời sống nội
tâm nhân vật, hiểu được nỗi lòng, chiều sâu từ trái tim người mẹ là phải có bổn
phận và trách nhiệm là phải sông như thê nào để thực hiện thiên chức của
người mẹ thì việc hi sinh cho con cũng là lẽ thường tình. Lời người xưa từng nói:
“chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn” và không có niềm vui nào bằng, khi người mẹ
lo cho các con được ăn no, được mặc ấm, được sông đầy đủ. Quả thật: “Lòng mẹ
bao la như biển Thái Binh dạt dào. Tinh mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt
ngào”. Phải chăng, người phụ nữ hàng chài là người mẹ mang vẻ đẹp như thế.
2. Tấm lòng bao dung của người vỢ
a. Chi tiết 1: Trước tòa án ch ị mượn q u á kh ứ đ ể b ả o vệ ch o chồng.
Đứng trước tòa án, chị nói; “Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính
nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Thông qua lời nói của người
phụ nữ hàng chài trước tòa, chị muôn quay về quá khứ, để xác định chồng chị
không có tính vũ phu mà bản tính là rât hiền lành nhưng xuất phát từ cuộc
sông khó khăn, con cái nheo nhóc, chiếc thuyền chật hẹp, tù túng cùng sự lam lũ
và khó nhọc trong nghề đã đè nặng trên đôi vai của người chồng, một áp lực quá
lớn rồi phát sinh sự cáu gắt, cộc cằn, thô lỗ kể cả hành động thô bạo như một
cách giải quyết do sự ức chế trước cuộc sông. Chị nói lên được điều đó trước tòa
nhằm bênh vực cho chồng là thể hiện tấm lòng bao dung của người vỢ.
b. Chi tiết 2: Trước tò a án, ch ị mượn hiện tại đ ế bên h vực ch o chồng.
Đứng trước tòa, chị không hề nói xấu chồng mà đưa ra cuộc sống hiện tại của gia
đình chị đang sống trên thuyền, nhằm chứng tỏ cho tòa biết rằng, không phải lúc
248