Page 142 - Bí Quyết Thi Đậu THPT Quooac Gia Môn Văn
P. 142

từng che  mưa,  chắn  nắng trước  sự khắc  nghiệt  của thiên  nhiên,  chông  đỡ từ làn
    tên mũi  đạn của quân thù  như “ưỡn  tấm  ngực lớn của mình  ra che chở cho  làng”.
    Nói đến tre  là dụng cụ thô  sơ gắn chặt vào  đời  sống của người dân quê Việt Nam
    từ cái rổ, cái rá,  cái  lờ bắt cá ... là dụng cụ thiết thực cho đời  sống con người và nói
    đến cây tre qua hai  cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ,  cây tre  có khác gì
    như một chàng dũng sĩ,  một chiến sĩ đồng hành trong chiến đấu:  “Tre xung phong
    vào xe tăng đại  bác,  tre giữ làng, giữ nước, giữ mái  nhà tranh, giữ đồng lúa chín”.
    Quả  thật,  dân  tộc  ta  từng vận  dụng  cây  tre  tiếp  tục  trường kì  kháng chiến  chống
    xâm  lăng vì:  “Biết  trồng  tre  mà  đợi  ngày  thành gậy.  Đi  trả  thù  mà  không  sợ dài
    lâu”.  Và  nói  đến  cây  tre,  ngoài  vẻ  đẹp  hữu  hình,  cây  tre  còn  mang  nét  đẹp  vô
    hình,  đưa  chúng  ta  liên  tưởng  về  truyền  thuyết  Thánh  Gióng  từng  nhổ  tre  bên
     đường  đánh  tan  quân  giặc  Ân,  biểu  tượng  sức  mạnh  quật  cường  của  một  dân  tộc
     không bao giờ khuất phục, không bao giờ chịu mất nước, chịu làm nô lệ.
       3.  Hình  ảnh  búi  tóc:  Tiếng  gọi:  “Tóc  mẹ  thì  bới  sau  đầu”  vẫn  là  hình  ảnh
    thân  thương,  quen  thuộc,  gần  gũi  trong  đời  sôhg,  phong  cách  của  người  phụ  nữ
     Việt  Nam,  người  mẹ  Việt  Nam  làm  nên  nét  duyên  dáng Việt  Nam,  nét  đẹp  văn
     hóa  Việt  nam.  Nói  đến  “búi  tóc”  là  nói  về  phong  tục  của  người  Âu  Lạc  thuở  xa
     xưa và cho  đến hôm  nay,  hình ảnh ấy, búi  tóc  ấy vẫn  ăn  sâu vào  tâm hồn và  đời
     sông  của  người  phụ  nữ  Việt  Nam,  người  mẹ  Việt  nam.  Nói  đến  “búi  tóc”  mà
     người  đời  thường  gọi  là  “búi  tóc  củ  hành”  tượng  trưng  vẻ  đẹp  về  công,  dung,
     ngôn,  hạnh  và  lòng  thủy  chung  của  người  vỢ  đã  có  chồng  là  nét  đẹp  truyền
     thông,  đạo  lí  làm nên nét đẹp văn hóa cho Đâ't Nước.
       4. Hình ảnh gừng cay muối mặn: Tiếng gọi: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng
     cay muối  mặn” thế hiện một vẻ đẹp như thấm sâu vào máu thịt của con người.  Nhớ
     đến  gừng  đến  muối  là  những vật  thể,  những gia vị,  không bao  giờ thiếu  trong mỗi
     bữa  ăn  của  gia  đình  Việt,  nó  mang  lại  hương  vị  đậm  đà  về  đời  sống  ẩm  thực  của
     nhân  dân  ta  từ bao  đời.  Nói  đến  “gừng” nghìn  đời  vẫn  cay,  nói  đến “muối” bao  đời
     vẫn mặn  là nguyên lí bất biến không bao giờ thay đổi cũng là quy luật tự nhiên của
     sự vật của tạo  hóa.  Từ vẻ  đẹp  ấy,  nhà thơ muốn  nói  đến  quy luật tình  cảm  của con
     người ở đây là, ông bà, cha mẹ, vỢ chồng sẽ không bao giờ thay đổi, là thể hiện lòng
     thủy chung làm  nền tảng vững chắc cho hạnh phúc gia đình, phát triển xã hội đem
     lại  sự giàu  đẹp  cho  Đất  Nước mà ca dao Việt  Nam,  đã từng dặn  dò  nhắc  nhở:  “Tay
     bưng chén  muối  đĩa gừng,  Gừng cay  muối  mặn xin  đừng quên  nhau”  hay  “Anh  ơi,
     chua ngọt đã từng,  Gừng cay muối mặn xin đừng phụ nhau”.
        5.  Hình ảnh cái  kèo,  cái cột: Tiếp  đến với tiếng gọi:  “cái  kèo,  cái cột  thành
     tên”.  Phải  chăng,  “cái  kèo,  cái  cột”  cũng  thành  tên  Đất  Nước  ư!  Lời  thơ  đưa  ta
     quay  về  cuộc  sông  thời  kì  nguyên  sơ,  ông  cha  ta  chưa  ý  thức  về  cuộc  sông  cộng
     đồng,  về  môi  trường,  gia đình,  ông cha ta đã  sôhg như những kẻ  du mục rày  đây
     mai  đó.  Rồi  theo  bước  đi  của thời  gian,  ý  thức  con  người  phát triển,  khi biết con
     chim  có  cái  tổ,  con  người  phải  có  mái  nhà  để  che  mưa  tránh  nắng,  an  cư  lạc

                                                                                 141
   137   138   139   140   141   142   143   144   145   146   147