Page 51 - Bí Mật Tháp Vẵn Xương
P. 51

Qua  nhưng  trích  đoạn  đó,  có  thế  thấy  được  phần  nào
         khuynh  hướng  cùng  như  sắc  thái  ngọn  bút  chép  sử  của  ông.
         Trân  trọng  công  lao  đánh  giặc  giử  nước  của  Tổ  tiên,  ông  đã
         nhận  định  về  i:uộo  khởi  nghĩa của Hai  Bà  Triíng  với  những lời
         lẽ  rấ t  mực  hào  hung:
              “Trưng Trắc  Trưng Nhị...  hô  một tiếng  mà  các  quận Cửu
         Châu,  Nhật Nam,  Hợp Phô’ cùng sáu mươi nhăm thành ở  Lĩnh
         Ngoại  đều  hưởng  ứng,  việc  dựng  nước  xưng  vương  dễ  như trở
         bàn  tay...”.  Đoạn  ông  ca  tụng  Ngô  Quyền  cũng  thâm   đượm
         lòng  tự  hào  sâu  sắc  trước  thắng  lợi  huy  hoàng  của  dân  tộc:
              “Tiền  Ngô  Vương có  thể lấy quân  mới  họp  của  nước Việt
         ta mà  đánh  tan  (lưực trăm  vạn  quản của Lưu  Iloăng Tháo,  mở
         nước  xưng  vương,  làm  cho  người  phương  Bắc  không  dám  sang
         nữa.  Có  thế  nói  là  một  lần  nổi  giận  mà  yên  được  dân,  mưu
         giỏi  mà  đánh  cũng  giỏi  vậy...
              Quan  tâm   sâu  sắc  đến  cuộc  sông  của  nhân  dân,  ông
         cũng  đã  nghiêm  khắc  phê  phán  những  hành  vi  bạo  ngược,
         trái  đạo  lý  của  vua  chúa,  như  đoạn  nhận  xét  về  cấm  lệnh
         “không  cho  con  gái  nhà  quan  lấy  chồng  trước  khi  dự  tuyển
         vào  hậu  cung”  của  Lý  Thần  Tông  (1128  -  1137),  chẳng  hạn:
         “Trời  sinh  ra  dân  mà  đặt  vua  đế’  chần  dắt,  không  phải  để
         cung  phụng  riên^  cho  vua.  Lòng  cha  mẹ  ai  chẳng  muôn  con
         cái  có  gia  thất;  thánh  nhân  thể  lòng  ấy  còn  sợ  ké  sát phu  sát
         phụ  không  được  có  nơi  có  chốn...  Thần  Tòng  xuống  chiếu  cho
         con  gái  các  quan  phải  đợi  xong  việc  tuyển  người  vào  cung  rồi
         mới  được  lấy  chồng,  thế  là  đê  cung  phụng  riêng  cho  mình,
         đâu  phải  là  tâm  lòng  của  người  làm  cha  mẹ  dân!”.
              Lê  Văn  Hưu  m ất  ngày  23  tháng  Ba  năm  Nhâm  Tuất
         (1322),  táng  ở  cánh  đồng  xứ  Mả  Giòm  {thuộc  địa  phận  xã
         Thiệu  Trung,  huyộn  Thiệu  Hóa,  tỉnh  Thanh  Hóa).  Hiện  nay  ở
         đó  vẫn  còn  phần  mộ  với  tấm   bia  dựng  năm  Tự  Đức  thứ  20
         (1867),  khắc  ghi  tiêu  sử  và  một  bài  minh  ca  tụng  tài  đức,  sự
         nghiệp  cúa  ông.


                                                                   49
   46   47   48   49   50   51   52   53   54   55   56