Page 115 - AllbertEstens
P. 115
Cơ sở lý thuyết của vũ trụ học hiện đại với những khám
phá làm thay đổi một cách căn bản cái nhìn của chúng ta về thế
giối đã được Albert Einstein xây dựng hoàn chỉnh vào năm
1916. Đó là lý thuyết tương đôi rộng vói các phương trình
trường mà ở một vế là hình học của không-thời gian và ở vê bên
kia là vât chất.
ề
Năm 1917, Einstein đã thử áp dụng lý thuyết ông vừa xây
dựng được cho toàn bộ vũ trụ. Song, mô hình mà ông thu được
không phải là một vũ trụ tĩnh như ông đã chờ đợi và ông đã
phải thêm vào các phương trình ban đầu những sô" hạng với hệ
sô" là một hằng sô" mói A gọi là hằng sô'vũ trụ học để giữ cho vũ
trụ không biến động.
Vào các năm 1922 và 1924, nhà toán học và khí tượng
người Nga Alexandre Friedmann, khi giải các phương trình lúc
đầu (1916) của Einstein (không có hằng sô" vũ trụ học), đã tìm ra
những nghiệm mô tả những vũ trụ biến thiên theo thòi gian.
Theo một nghiệm thì vũ trụ sẽ nỏ ra mãi mãi (vũ trụ mở), còn
theo nghiệm kia thì vũ trụ nở ra nhưng đến một lúc nào đó sẽ co
lại (vũ trụ đóng).
Năm 1927, Georges Lemaĩtre, một linh mục ngưòi Bỉ, giải
các phương trình sau (1917) của Einstein (có hằng sô" vũ trụ
học), cũng tìm ra những nghiệm mô tả một vũ trụ biến động và
nói riêng thu được cả các kết quả của Friedmann mà ông không
biết.
Rồi năm 1929, nhà thiên văn người Mỹ Edwin Hubble đã
khám phá ra một hiện tượng thiện văn đặc biệt: Các vạch trong
quang phổ của ánh sáng phát ra từ các thiên hà ở xa bị dịch
chuyển về phía các vạch đỏ so với các vạch trong quang phổ của
một nguồn ánh sáng trên Trái Đất. Sự dịch chuyển này, được
giải thích theo hiệu ứng Doppler (tần sô' của một nguồn dao
động thay đổi khi nguồn đó chuyển động, tăng lên nếu nguồn
113