Page 105 - AllbertEstens
P. 105
nghiệm tiên đoán về sóng hấp dẫn. Theo lý thuyết tương đối
rộng, hai khốỉ lượng lớn và quay rất nhanh đó phải sản sinh ra
sóng hấp dẫn và sự phát sóng này làm cho hệ bị mất năng lượng
mà kêt quả là chu kỳ quay của một khối lượng xung quanh khôi
lượng kia phải tăng lên. Sự tăng chu kỳ quay của punxa trong
hệ của Hulse và Taylor như đã quan sát được là 76 phần triệu
của một giây trong 1 năm, giá trị này tương ứng đúng (trong
phạm vi 0,02%) với độ hao tổn năng lượng được tiên đoán do
phát sóng hấp dẫn (J. H. Taylor và các cộng sự, 1979; theo [10]).
Chứng cớ về sóng hấp dẫn theo sự phát hiện như trên
thường được xem là gián tiếp vì chúng ta chỉ thấy được các hệ
quả của sóng qua các diễn biến trong quỹ đạo của hệ sao. Tuy
nhiên, theo nhận xét của Shapiro [2], ta cũng có thể phê phán
giống như vậy đốỉ vối bất kỳ sự phát hiện nào vì sự có mặt của
sóng phải được suy ra từ các quan sát về một cái gì đó, thí dụ
như sự rung động của một thanh nặng. Sự khác nhau cơ bản là
ỏ chỗ ta suy ra các tính chất của sóng từ tác dụng của nó đến
nguồn hay là đến đêtectơ, nếu là đến đêtectơ thì khả năng kiểm
soát của người quan sát sẽ nhiểu hơn.
Hiện nay người ta đang có những nỗ lực rất lớn nhằm đo
trực tiếp bức xạ hấp d ẫ n 10-1000 Hz với thiết bị LIGO (Laser
Interferometer for Gravitational Waves Observatory). Thiết bị
này, trị giá 300 triệu đôla, được để xuất vào năm 1985 và năm
1991 đã được Quốc hội Mỹ chấp nhận. Đó là một mạng lưối nối
các đêtectơ ở Hanford và Livingstone ở Mỹ và Hannover ở Đức.
Các đêtectơ hoạt động trên cơ sở tách một chùm lade thành hai
phần và gửi chúng đi theo những đường vuông góc vối nhau
trước khi cho kết hợp với nhau. Nếu có một gỢn sóng hấp dẫn đi
qua T rái Đ ất, nó sẽ làm biến dạng không-thòi gian theo phương
nó đi đến, làm thay đổi các chiểu dài tương đôi (so sánh) của các
đưòng đi khác nhau ,và do đó làm thay đổi hình giao thoa thu
103