Page 339 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 339

Nhưng ngược lại, cũng  không nên vì  tính cách thần  kỳ quái  đản để
     giải thích nguồn gốc dân tộc ấy mà hồ đồ và hiếu lầm cho cá một đoạn sử
     đời Hùng cũng là hoang đường cả.

     2. Danh xưng Hùng vương (hay Lạc vương)

           Cũng như những nhân danh và địa danh khác, ở thời thượng cổ, con
     cháu  đã đặt  tên  cho tổ  liên.  Thời  ấy  ta không  giao  thiệp  với  Trung  Hoa
     nên không có chữ Nho, chỉ có một mớ tên nôm nào đó, nay không tìm ra
     nữa.  Đừng  vì  một  ông  H.Maspéro  khoe  tài  bắt  bẻ  chữ Nho  mà  mắc  vào
     cái tiếng cười của người la là mồ cha chẳng khóc, khóc đống mối (cả mấy
     nghìn  năm)  để  rồi  cuống  lên  với  nhau  về  vấn  đề  Hùng  đúng  hay  Lạc
     đúng.  Hùng  là tên mà con cháu người  mình đặt cho tổ tiên của mình, đã
     có dền thờ, có duệ hiệu, có ghi vào sách và toàn dân đã biết rồi.  Còn Lạc
     là  tên  do  một  ông  con  nuôi  người  Tây  đem  óc  hợp  lý  của Tây  vào,  bảo
     như thế mới dúng. Thì mặc ông ấy. Ta cứ dùng cái tên dã dược công nhận
     để chí dòng vua đầu tiên của ta.

     3. Thuỷ tổ người Việt Nam

           Không thể tách  rời  việc  lìm người  thuỷ  tổ ra khỏi  việc tìm  địa bàn
     nơi  gốc  tổ,  nó  cho  phép  người  thuỷ  tổ  ấy  cư  ngụ  và  sinh  sống.  Phong
     Châu chí là gốc tổ thứ hai mà đời sống đã chuyển sang canh nông. Gốc tổ
     thứ nhất  chính  là  cửu  Chân,  nơi  tứ chiếng  quần  cư của  các  giống  dân
     sống bằng nghề săn bắn, chcài lưới, đi biển. Đó là những người lẻ tẻ từ Bác
     Hái xuống, từ Nam Hái  lên, đế lai giống với nhau thành người Giao Chí.
           NhũTig nhà khảo cổ học, căn cứ vào các di  tích tiền  sử. ở Hoà Bình
     và  Bắc  Sơn, đã nhìn  nhận  có hai  nền  văn minh  mà văn  minh  Hoà  Bình  ở
     phía Nam  xưa hơn  phía  Bắc.  ấy  là đã có một cuộc di  cư tìm  đất  sống  để
     làm  canh  nông.  Và  khi  tới  nơi,  các  bộ  lạc  mới  tập  hợp  lại  dưới  quyền
     thống lãnh cùa họ Hùng Vương.
     4. Quốc hiệu Văn Lang

           Văn  Lang cũng  là cái lên mà con cháu về sau  này đặt  ra khi có học
     dược chữ Nho. Cụ tổ Hùng Vương chắc chẳng hề biết gì hết.
           Tuy  nhiên,  người  yêu  mến  dất  nước  mình,  lo  tìm  một  cái  tên  dặt
     cho đâì  nước mình,  một việc  làm quan  trọng hết  sức,  tất  người  ây  phải
     hiếu  rõ  hết  nghĩa  ở nội  dung  của  13  tự dạng  của  chữ  Lang  rồi  mới  so
     sánh  và  lựa  chọn.  Không  ai  dùng  chữ  Lang  có  nghĩa  là  con  chó  sói,
     con  bọ ngựa,  cây cau,  câu cỏ.  cái  xích  v.v... Thì  người  ta tất  phải  dùng
      3.32
   334   335   336   337   338   339   340   341   342   343   344