Page 10 - Vấn Đề Bảo Vệ Quyền Sở Hửu Trí Tuệ
P. 10
10 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ... THƯƠNG MẠI
sáng chế đó là một quy trình hay một phần của quy trình thì quy trình đó
phải có khả năng thực hiện hay “sử dụng” quy trình đó trong thực tiễn.
“Khả năng áp dụng” và “khả năng áp dụng công nghiệp” là các thuật
ngữ tương ứng phản ánh khả năng chế tạo hay sản xuất trong thực tế cũng
như khả năng thực hiện hay sử dụng trong thực tiễn.
Thuật ngữ “công nghiệp” trong thuật ngữ trên có nghĩa riêng trong hệ
thống thuật ngữ của lĩnh vực sáng chế. Theo ngôn ngữ phổ thông, hoạt
động “công nghiệp” nghĩa là hoạt động kỹ thuật ở một quy mô nhất định
và khả năng áp dụng “công nghiệp” của một sáng chế nghĩa là việc áp
dụng (sản xuất, sử dụng) sáng chế đó bằng những phương tiện kỹ thuật ở
một quy mô nhất định.
c) Tính mới
Tính mới là một yêu cầu cơ bản trong bất kỳ xét nghiệm nào về mặt
nội dung và là một điều kiện không phải bàn cãi để xét cấp Bằng độc
quyền sáng chế. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, tính mới không
phải là những gì có thể chứng minh hay xác định được; chỉ việc thiếu tính
mới là có thể chứng minh được.
Một sáng chế được đánh giá là mới nếu không bị coi là đã biết trước
nếu sử dụng tình trạng kỹ thuật đã biết. “Tình trạng kỹ thuật đã biết” được
hiểu một cách chung nhất là toàn bộ những kiến thức đã có trước khi đơn
yêu cầu được nộp hoặc đã có trước ngày ưu tiên của đơn xin cấp Bằng độc
quyền sáng chế, bất kể nó tồn tại dưới dạng bộc lộ bằng văn bản hay miệng.
Câu hỏi đặt ra về những gì được coi là cấu thành “tình trạng kỹ thuật đã
biết” tại một thời điểm xác định vẫn còn là một chủ đề gây tranh cãi.
Có quan điểm cho rằng việc xác định tình trạng kỹ thuật đã biết chỉ
phải được tạo ra từ những kiến thức được bộc lộ, biết đến ở riêng quốc gia
bảo hộ mà thôi. Cách này sẽ loại bỏ những kiến thức từ các quốc gia khác,
nếu nó không được du nhập vào quốc gia đó trước khi tạo ra sáng chế,
ngay cả khi những kiến thức này được lưu truyền rộng rãi ở nước ngoài
trước ngày tạo ra sáng chế.
Một quan điểm khác về tính mới dựa trên sự phân biệt giữa bộc lộ qua
xuất bản phẩm in ấn và các loại hình bộc lộ khác như thông qua việc công