Page 10 - Trị Bệnh Hiếu Động Ở Trẻ Em
P. 10

TRỊ BỆNH HIẾU E>ỘNG ở  TRẺ EM                          11


      ra những trở ngại có kèm theo hoặc không kèm theo
      nhận  biết và những  người  bệnh  đó đã  biết  là có tồn
      tại  hoặc  không  tồn  tại  tổn  thương  thần  kinh,  ông
      cho  rằng  những  hành  vi  này  ở  một  ý  nghĩa  nào  đó
      đều có liên quan đến việc thiếu  sức chú ý và đều có
      cơ sở thần  kinh  học.  Từ thập kỷ  30  -  50  của thế kỷ
      XX,  các  nhà  khoa  học  nhấn  mạnh  về  quan  hệ  tổn
      thương  não  của  những  bệnh  này.  Tổn  thương  não
      bao  gồm:  cảm  nhiễm,  trúng  độc,  tổn  thương  phần
      đầu. Trong thời kỳ này, những triệu chứng này được
      cho là có những biểu hiện tương tự như “chứng tổng
      hợp tổn thương não độ nhẹ”.

           Cho  dù  trước  đó  rất  sớm  đã  nhận  ra  rằng  hoạt
      động  quá độ có  liên  quan  đến  những  bệnh  nói  trên,
      nhưng  đem  chúng  làm  triệu  chứng chủ  yếu  để chẩn
      đoán  bệnh  thì  phải  đến  sau  thập  kỷ  50  thế kỷ  XX.
      Trong  thời  gian  này,  các  nhà  khoa  học  nhận  ra  tác
      dụng  của  đại  não,  gò  não  (khâu  não),  các  đốt  thần
      kinh  điều  tiết  hành  vi  vận  động.  Từ  đó  mọi  người
      bắt  đầu  dùng  cụm  từ  “bệnh  hiếu  động  ở  trẻ  em”.

      Sau những năm 30 của thế kỷ XX, mọi người đã chú
      ý thấy việc  ứng  dụng  thuốc  kích thích trung khu có
      thể  cải  thiện  được  những  triệu  chứng  này,  mà  đến
      thập  kỷ  60  thế  kỷ  XX,  thuốc  kích  thích  này  mới
      được  ứng dụng  rộng  rãi.  Sau  đó nhiều  phương pháp
      điều trị đã được chấp nhận.
   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15