Page 41 - Trang Phục Việt Nam
P. 41
(chánh lục phẩm mũ màu đen, tòng lục phẩm màu xanh). Chánh lục phẩm
được mang đai, đi hia. Người tôn thất đội mũ phương thắng màu đen.
Chức võ, lục phẩm đội mũ chiết xung, tước cao mà không có chức được
mang đai và đội mũ giác đính, thất phẩm đội mũ thái cổ, tòng thất phẩm
đội mũ toàn hoa. Vương hầu đội mũ viễn du. Ngự sử đài đội mũ khước
phi. Nhà vua búi tóc, dùng the bọc và buộc lại, trông như khăn nhà đạo sĩ,
chỉ rộng hơn một ít, còn tóc hai bên thì vẫn để lộ ra và xõa xuống. Các quan
[17]
được mặc áo bào và cầm hốt. Có những trường hợp đi chân đất .
Ngày nay, quan sát một pho tượng quan hầu bằng đá ở lăng vua Trần
Hiến Tông (xây dựng khoảng giữa thế kỷ XIV) ta thấy người đó mặc áo
đại triều rủ xuống gần sát đất. Dải lưng thắt hình số 8 ở phía trước, hai đầu
có tua thả so le. Do chỗ thắt lưng chẹn lại, phần dưới tà áo xòe ra, phủ gần
kín chân, và từ hai khuỷu tay trở ra, tay áo được xếp nhiều nếp, biểu hiện
tấm áo được may với qui cách dài và rộng. Đầu tượng đội mũ bao trùm
[18]
cả tóc .
Ngoài tục xăm mình, quân đội thời Trần đều thích chữ “Sát Thát” vào
cánh tay để biểu hiện lòng quyết tâm giết giặc xâm lược Nguyên - Mông.
Việc xăm mình, thích chữ đã rất phổ biến từ đầu thời Trần. Nô tỳ thuộc nhà
quan thích lên trán ba chữ “Quan trung khách”. Nô tỳ hầu cận vua thích trên
trán ba chữ “Tọa thượng nô”. Đời Anh Tông niên hiệu Hưng Long năm thứ
[19]
6, quy định cho quân lính các đô cấm vệ thích những chữ quân hiệu trên
trán như: Chân thượng đô, Thủy dạ xoa đô, Chân kim đô… Quân lính
thường xăm hình rồng ở bụng, lưng và hai đùi. Thường chỉ mặc một áo
xanh rộng tay, trời nóng thì cởi trần, cũng không có áo giáp, mũ trụ. Quân
túc vệ xăm hình hoa trên trán. Quân khiêng kiệu, cầm tàn quạt cho vua
thường để mình trần (dù trời rét), chỉ dùng một đoạn vải xanh quấn từ
mông lên đến rốn… Gia nô các vương hầu, công chúa đều phải thích chữ
vào trán để phân biệt.