Page 300 - Trang Phục Việt Nam
P. 300

Mũ tiến hiền làm bằng vải thâm, đằng trước cao 7 tấc, đằng sau cao 3 tấc, dài 8 tấc, có 5 cầu, quan
  nhất phẩm, nhị phẩm đội khi tế lễ và khi hội triều thần.
     Mũ điêu thiền giống như mũ tiến hiền nhưng có đính thêm đuôi con điêu thử và chỉ có 2 cầu dành cho
  các quan tam phẩm ở các ty và tam phẩm ngự sử đài, quan ngũ phẩm ở hai sảnh, đội khi tế lễ hay khi hội
  triều thần.
     Mũ giải trãi cũng giống như mũ tiến hiền nhưng có thêm sừng con giải trãi (một giống thú thần bí,
  hình giống con dê, có một sừng) và chỉ có 2 cầu, dành cho các quan tứ phẩm, ngũ phẩm, lục phẩm trở
  xuống đội khi tế lễ hay khi hội triều thần.
     Về thể chế áo, thì cổ áo bẻ, tay áo rộng, dưới có đường lan can ngang, các quan từ tam phẩm trở lên
  mặc áo màu tía, tứ ngũ phẩm màu đỏ, lục, thất phẩm màu lục, bát cửu phẩm màu xanh. Thắt đai da, đi hia
  da đen, đeo túi ngư đại, thêu hình cá (áo màu tía thì thêu cá vàng, áo các màu khác thì thêu cá bạc). Khi có
  việc công, mặc phẩm phục thì đeo túi ấy vào đai, buông về phía sau để phân biệt cấp cao thấp.
     [6]  Ngoài những vấn đề trang phục của các nhân vật quan trọng như vua, quan văn, quan võ… trong
  triều, ở mục này chúng tôi còn giới thiệu những kiểu cách trang phục của những người phục vụ trực tiếp
  cho bộ máy triều đình như quân lính, cung nữ, vũ nữ, nhạc công, v.v… Thực ra những lớp người như vũ
  nữ, nhạc công… đặt vào phần này có thể chưa thỏa đáng.
     [7]  Theo Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán, Hà Nội nghìn xưa. Nxb Hà Nội, 1998.
     [8]  Tượng Kim Cương ở chùa Long Đọi (Đọi Sơn, Duy Tiên, Hà Nam).
     [9]  Tượng Kim Cương ở chùa Phật Tích (Tiên Sơn, Bắc Ninh).
     [10]  Tượng ở chùa Long Đọi.
     [11]  Như tượng đá đầu người mình chim chùa Phật Tích.
     [12]  Như ở tượng đá chạm nổi ở thành bậc tháp Chương Dương (Ý Yên, Nam Định), tượng đất nung
  chùa Long Đọi (Hà Nam).
     [13]  Vân kiên: tấm vải trang trí đẹp, có loại có tua, trùm một phần ngực, lưng và vai.
     [14]  Như hình chạm ở tảng đá kê chân cột chùa Phật Tích (Bắc Ninh).
     [15]  Theo bản dịch Đại việt sử ký toàn thư. Còn ở bản dịch LTHCLC lại viết: các quan văn võ đều đội
  mũ kiểu chữ đinh (tục gọi là mũ nhà Minh). Xét thấy không đúng, vì nhà Minh (TQ) bắt đầu từ 1368, trong
  khi mũ chữ đinh đã được nhắc tới ở nước ta trước đó (ít ra là từ 1300), sao lại gọi là mũ nhà Minh được?
  Ngoài ra, Vũ trung tùy bút lại có đoạn viết: “Thời Đinh Tiên Hoàng mới chế ra loại mũ tứ phương bình đính,
  là mũ hình vuông, đỉnh bằng, làm bằng da… về sau mới biến đổi thành hình lục lăng… và gọi là mũ bình
  đính. Rồi lại thay hình vuông thành hình tròn, uốn chỗ thẳng thành cong, làm một loại mũ thông dụng khi
  vào triều, gọi là mũ chữ đinh”. Mặt khác, tìm hiểu các loại trang phục Trung Quốc, chúng tôi chưa tìm thấy
  có loại mũ nào tên gọi là mũ chữ đinh, nhất là ở thời nhà Minh.
     [16]  Tụng quan là quan hầu cận vua. Ở sách Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch Nxb Sử học lại
  viết là thuộc quan.
     [17]  Trần Phu tả lại trong An Nam tức sự việc hàng trăm viên quan triều Trần, đi đón tiếp sứ giả, mặc
  áo bào, cầm hốt nhưng đều đi chân đất. Có lẽ hình thức này diễn ra là để biểu hiện sự kính trọng, cũng như
  người dân đi giày vào cung vua đều cởi giày ra.
     [18]  Tượng quan hầu, Lăng Trần Hiến Tông (An Sinh, Đông Triều, Quảng Ninh).
     [19]  Mỗi đô là 80 người. Có sách nói 50 người.
     [20]  Theo Lịch sử Việt Nam, Tập I và Tăng Bá Hoành, Nghề cổ truyền Hải Hưng, NXB, Sở Khoa học
  Công nghệ và Môi trường - Bảo tàng Hải Hưng.
   295   296   297   298   299   300   301   302   303   304   305