Page 32 - Trang Phục Truyền Thống Của Các Dân Tộc Việt Nam
P. 32
cây trong rừng. Màu xanh lấy lá cây tơrung vò nát, ngâm
trong ché khoảng một tuần, sau đó lấy ra nghiên mịn. Nước
lá đông lại thành cục nhỏ, đồng bào mang phơi thật khô, lúc
nhuộm lấy chẩt keo đó bỏ vào chậu, đổ nước vào hoà tan và
ngâm sợi trong hai ngày. Màu xanh dương lấy từ lá cây chát
(chàm be), màu đỏ lấy loại cỏ họ dền, phơi khô, nấu, lọc rồi
nhuộm sợi, màu vàng lấy củ nghệ dại không giống với nghệ
thường ăn, hạt quả cari còn gọi là quả nho để chế màu
cam... Để màu nhuộm được bền, người ta hòa thêm bột vỏ
sò và tro củ chuối vào dung dịch nhuộm.
Khi dệt, người phụ nữ ngồi duỗi thẳng chân trên sàn,
hai chân đạp và giữ chặt một thanh chủ của khung dệt [gọi
là đưng-pong) và một thanh chủ khác được dùng dây móc
vào lưng người dệt để cổ định và kéo căng khung sợi. Các
thanh khác tùy theo chức năng của chúng mà luồn rất khéo
vào giữa giàn sợi...
Nhìn chung, y phục truyền thống ở các nhóm Cơ Ho
khá thống nhất. Tính thống nhất này thể hiện trên nhiều
bình diện, từ kiểu cách cắt may, chất liệu vải... cho đến bố
cục và các mô-tip hoa văn trang trí. Trên những tấm vải
thổ cẩm của dân tộc Cơ Ho, nét độc đáo nhất chính là
những họa tiết, hoa văn sinh động được người dệt gửi gắm
bằng tất cả tâm hồn, tình cảm cũng như sự cảm nhận về
thế giới tự nhiên, con người của mình. Đó có thể là các loại
hoa văn kỷ hà, hình người, các loài muông thú và các vật
dụng quen thuộc, gần gũi trong đời sống sinh hoạt hàng
ngày của bà con như: cầu thang nhà sàn, cổ nỏ, tua cây nêu,
cán xà gạt, con thuyên, mắt chim công, vầng trăng, con bọ
chè, cườm chim cu...
32