Page 178 - Quan Hệ Bang Giao Và Những Sứ Thần Tiêu Biểu
P. 178
(^tion Ịiè ỉnn\ịị iiiiío vù cúc sứ thằn I,iẽu... 179
(1684) đỗ đầu khoa Sĩ vọng, năm Mậu Thìn (1688) đỗ Tam
giáp đồng liến sĩ xuất thân. Hiện nay, ờ Văn Miếu Quốc Tử
Giám Hà Nội có tấm bia đá tiến sĩ lập năm Vĩnh Thịnh thứ
18 (1717) có tên là Hà Tông Mục đồng liến sĩ xuất thân.
Ổng làm quan tại Viện Hàn lâm, Đốc đồng hai xứ Tuyên
Hưng, Tuần phủ tỉnh An Biên (Hà Giang).
Tháng 4/1697, năm Chính Hòa thứ 18 làm Phủ doãn
phủ Phụng Thiên kinh thành Thăng Long, ông cùng Lê
Huy, Nguyễn Quý Đức và 20 tiến sĩ soạn cuốn lịch sử “Đại
Việt sử ký tục biên”.
Nãm Chính Hòa thứ 20, ông Hà Tông Mục đưỢc triều
đình thời Lê Dụ Tông giao trọng trách đi đàm phán đấu
tranh với đại diện nhà Thanh ngăn chặn không cho quân
Thanh xâm chiếm châu Bảo Lạc (tỉnh Cao Bằng). Tháng tư
năm 1699, vua Lê Dụ Tông ra lệnh cho Hà Tông Mục cùng
Nguyễn Hành đi kinh lược miền Tây ở châu Bảo Lạc. Biên
giới châu Bảo Lạc giáp với châu Trấn Yên của nhà Thanh.
Quân Thanh vượt biên giới sang Bảo Lạc cướp bóc,
nhũng nhiễu nhân dân đói khổ phải bỏ sản xuất, nhà cửa
vào rừng sâu lánh nạn. Quan quân ở địa phương yếu thế
không thể chế ngự được chúng. Hà Tông Mục đến Bảo Lạc
nắm tình hình rồi gửi thư cho sầm Sa Phương, đại diện
quân Thanh cho biết về lý lẽ và sự việc xảy ra bất ổn cho
nền bang giao giữa hai nước, sầm Sa Phương đáp thư, tỏ ý
hổ thẹn và tạ lỗi, xin rút quân về nước. Nhờ đó nhân dân
vùng biên ải Bảo Lạc đưỢc an cư lạc nghiệp.
Khi về Kinh đô Thăng Long, Hà Tông Mục được chúa
Trịnh khen là người có tài ngoại giao và phong làm Tự
khanh hành, Đô cấp sự trung. Năm Quý Mùi (1703), triều
đình cử ông làm chánh sứ sang triều đình nhà Thanh để tìm
cách giải quyết hòa hiếu giừa hai nước. Do đối đáp ứng xử