Page 73 - Những Vị Thuốc Quanh Ta
P. 73
lOg, sắc uống ngày 1 thang, chia 2 - 3 lần. Nếu đại tiện
lỏng, phân sống thì giảm lá chua me đất.
- Chữa ho có đờm, trẻ em nôn trố: Lá xương sông
bánh tẻ 2 - 3 lá; mật ong 5 thìa con. Lá xương sông rửa
sạch, thái nhỏ, cho vầỷSảt con cùng vối mật ong, đem
hấp cách thuỷ (đun sổi chừng 10 phút) rồi lấy ra, chắt
nước uống nhiều lần trong ngày. Người lổn có thể nhai
nuốt cả lá.
- Chữa sang chấn, thấp khóp: Lá xương sông (liều
lượng tuỳ theo mức tôn thương) giã nát, xào nóng,
chườm lên vùng đau nhức hoặc viêm tấy. Nếu bó lá tại
chỗ, để qua đêm càng tốt.
18. Lô hội
a. Thành phần và tác dụng
Lô hội là cây thảo sống nhiều năm, lá màu xanh
lục, không cuống, mọc sít nhau, dày, mẫm, hình 3 cạnh,
mép dày, có răng cưa thô. Hoa nỏ vào mùa thu và hè,
mọc thành chùm dài màu vàng lục, phớt hồng. Quả
nang có hình bầu dục, lúc đầu có màu xanh sau chuyển
sang vàng, ở nước ta, lô hội thường được trồng làm
cảnh; lá, hoa và rễ được dùng làm thuốc. Trong dân
gian, lô hội còn có nhiều tên gọi khác nhau như nha
dam, du thông. Hoạt chất chủ yêu của lô hội là aloin
bao gồm nhiều antraglucosid dưới dạng tinh thể, vị
đắng và có tác dụng chữa viêm tấy.
Theo Đông y: Lô hội vị đắng, tính mát, vào các kinh
can, tỳ, vị có tác dụng thanh nhiệt, tả hoả, giải độc, mát
72