Page 152 - Lý Thường Kiệt
P. 152

LÝ THƯỜNG KIỆT


         huyện thuộc Quế Châu, bắt 8.500 bảo đinh, 91.200 các hạng khác. Bảo đinh
         được cấp tiền gấp hai những hạng kia, vì bảo đinh có thể dùng làm chiến
         binh. (Đ. Ho, DL 8-3; TB 273/la).
             Chừng ấy cũng không đủ, viên chuyển vận sứ Lý Bình Nhất tính cần có
         40 vạn phu cả thảy. Ngày mồng 1 tháng 4 (B. Tu, DL 6-5), vua Tống sai Quách
         Quỳ xét lại, và dặn nên làm cho khỏi náo động nhân tâm.  Quỳ nói: "Theo
         Bình Nhất, lương khẩu cần cho 10 vạn quân và một vạn ngựa ăn trong một
         tháng phải có 40 vạn phu chuyên chở. Một tháng đã vậy; huống chi, từ nay
         đến lúc tới sào huyệt giặc, không phải chỉ một tháng mà thôi. Nay tính cho
         rộng rãi,  trừ phần  quân  và  ngựa  tự chở lấy,  trừ phần có  thể  lấy  ở các  địa
         phương sản xuất; còn dư, ta sẽ mua trâu bò mà chở. Dọc đường, ta lại làm thịt
         trâu bò ấy cho quân ăn. Nếu ăn còn thừa, sẽ cấp cho các đồn điền cày. Làm
         như thế ta có thể giảm bớt phu. Ta lại bỏ bớt những đồ không cần gấp. Ta sẽ
         dùng xe lừa kéo; cho đi đi, lại lại, mà chở. Nói tóm lại, ta có thể bớt số phu đi
         một nửa, còn 20 vạn mà thôi", (lời tâu vào tháng 11, CN, theo TB 274/la).
             Cũng vì thiếu phu khiêng vác, mà ty An Nam chiêu thảo đã phải xin bỏ
         bớt một nửa  mũi  tên bằng sắt, chỉ mang  theo  32.400  cái  mà  thôi.  (9-2, TB
         273/6b).

             6.  Y dược

             Miền nam, khí hậu nóng nực; mà quân, phần đông từ miền cực bắc kéo
         xuống.  Lại phải  qua các vùng rừng núi,  thường đầy lam chướng.  Từ xưa,
         nước ta đã có tiếng là xứ độc. Mã Viện đã tả cảnh nước lụt mùa hè, khí độc
         xông lên, đến nỗi chim trên trời phải sa xuống nước. Vì vậy vua Tống Thần
         Tông, trong cuộc nam chinh này, rất chú ý về việc thuốc thang cho quân sĩ.
             Ngay ban  đầu,  lúc  nghe  Khâm,  Liêm  bị  mất,  vua  Tống sai  viện  binh
         xuống Ung Châu, mà đã chiếu cho hàn lâm y quan viện chọn 57 bài thuốc
         trị lam chướng; và sai sở hạp dược chế thành tễ, rồi mang theo quân (23-12
         năm Ất Mão, DL 31-1-1076; TB 271/13b).
             Đến  lúc  quân  đã  ra  ngoài  Lĩnh,  vào  Quảng Tây,  người  đau  ốm  càng
         nhiều. Ngày 17 tháng 5, có chiếu dụ rằng: "Sau khi qua Lĩnh, hễ quân có ai



                                           162
   147   148   149   150   151   152   153   154   155   156   157