Page 245 - Lịch Sử Văn Minh Thế Giới
P. 245
ghét tiền tài, vì theo ông đó là lực lƣợng phá hoại hài hòa của
cuộc sống:
Vì nó mà không có anh em.
Vì nó mà người thân không hòa mục,
Vì nó mà sinh ra chiến tranh sát phạt.
Vả lại, đáng sợ nhất là
Chúng ta, những người thương yêu lẫn nhau
Cũng vì nó mà sinh ra thù ghét.
Nhà thơ trữ tình cuối cùng là Panhđa (522 - 422 TCN). Ông
là đại biểu của văn học quý tộc. Thơ của ông chủ yếu ca ngợi đời
sống hào phóng xa hoa của giới quý tộc, tán dƣơng những kẻ
thắng cuộc trong đại hội điền kinh Ôlempích.
Thơ trữ tình của Hy Lạp có ảnh hƣởng lớn đối với thơ ca
của phƣơng Tây sau này về phong cách sáng tác cũng nhƣ hình
thức và đặt cơ sở cho một hình thức văn nghệ mới ở Hy Lạp là
kịch.
Ngoài thơ trữ tình ở Hy Lạp có một số nhà thơ còn sáng tác
về chủ đề chính trị, trong đó, bài Hành khúc của Tiếctê ca ngợi
sự anh dũng của ngƣời Xpác đƣợc coi là mẫu mực của loại thơ
ca chiến đấu.
Ngƣời La Mã vốn từ sớm đã chịu ảnh hƣởng của văn hóa
Hy Lạp. Đặc biệt sau khi đánh chiếm thành phố Tarentơ của Hy
Lạp ở trên bán đảo Ý vào năm 272 TCN, La Mã bắt đầu tiếp xúc
với văn học Hy Lạp, do đó đã chịu nhiều ảnh hƣởng của văn học
Hy Lạp.
Văn học La Mã cũng bao gồm nhiều thể loại nhƣ sử thi, thơ
trữ tình, thơ trào phúng, văn xuôi, kịch.
Thời cộng hòa, La Mã đã có nhiều thi sĩ và nhà soạn kịch, ví
dụ, Anđrônicút đã dịch Ôđixê ra tiếng La tinh, Nơviút viết sử thi