Page 173 - Giới Thiếu Thị Trường Thổ Nhĩ Kỳ
P. 173
Bảng Thống kê trên cho thấy, trong cơ cấu hàng xuất
khẩu của Việt Nam sang Thổ Nhĩ Kỳ, nhóm hàng xơ, sợi dệt và
hàng điện thoại di động, linh kiện luôn chiếm kim ngạch và tỷ
trọng cao nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu trong những năm
qua, với mức tăng cao qua các năm (Đây là hai mặt hàng được
thực hiện chủ yếu bởi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài). Cụ thể, so năm trước, nhóm hàng xơ, sợi dệt năm 2011
đạt 276,18 triệu USD, tăng 56,5%, chiếm tỷ trọng 35,8%; năm
2012 đạt 339,58 triệu USD, tăng 23%, chiếm tỷ trọng 39,4%.
Tiếp đến là mặt hàng điện thoại di động và linh kiện, năm 2011
đạt 121,33 triệu USD, tăng 46,7%, chiếm tỷ trọng 15,7%; năm
2012 đạt 199,4 triệu USD, tăng 64,4%, chiếm tỷ trọng 23,1%.
Một số mặt hàng khác cũng có kim ngạch xuất khẩu cao
như dệt may, cao su, sắt thép, máy móc thiết bị, máy vi tính và
hàng điện tử. Đáng chú ý là mặt hàng chất dẻo nguyên liệu và
máy móc thiết bị có mức tăng trưởng rất cao trong năm 2012,
với mức tăng tương ứng là 496,5% và 157,7%. Bên cạnh đó, do
khó khăn chung về thị trường nên một số mặt hàng xuất khẩu có
mức tăng trưởng âm so năm trước như gạo, sắt thép, dệt may,
cao su…
Riêng 8 tháng đầu năm 2013, một số mặt hàng xuất
khẩu của Việt Nam sang Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức tăng rất cao so
cùng kỳ năm trước như máy vi tính và hàng điện tử tăng
367,3%, gạo tăng 135,7%, điện thoại di động và linh kiện
tăng 101,4%, chất dẻo nguyên liệu 100%. Ngoài ra, một số
mặt hàng có mức tăng trưởng âm, nhưng không làm ảnh
hưởng đến kim ngạch xuất khẩu chung của Việt Nam sang
Thổ Nhĩ Kỳ 8 tháng đầu năm 2013.
165