Page 164 - Di Chỉ Của Nền Văn Minh Xưa
P. 164
trận; nếu chống đỡ không nổi. có sơ hở. thì đội hình thứ
hai người trưởng thành được bổ sung vào trận hoặc đó
là quân chủ lực với mật độ dày đặc tiếp tục kháng cự.
Trong tình hình nguy khốn thì đội quân thứ 3 giàu kinh
nghiệm, có thể coi đó là đội quân tinh nhuệ vào cuộc.
Kết cục cuối cùng thường là do đội quân tinh nhuệ
quyết định, cho nên người La Mã thường có câu: “Sự
việc phát triển đến mức dùng quân hậu bị” để hình dung
mức then chốt quyết định của sự việc.
Quân bộ binh nặng trang bị chủ yếu là thương dài.
Đến thế kỷ 4 trước công nguyên, thì vũ khí quân La Mã
được cải tiến, gồm mâu ngắn và hai đoản kiếm, nhờ vậy
mà hiệu quả chiến đấu tăng lên cả lúc tiếp cận xa và gần
cũng như lúc giáp lá cà vật lộn chiến đấu. Cũng vào thời
kỳ này, bộ binh nặng của La Mã cũng được trang bị cả
áo giáp che thân và che ngực, đồng thời có cả khiên sắt
làm vật che chắn khi đối phương đâm chém. Trên đầu
được đội thêm mũ sất bảo vệ đầu. Áo giáp thì có thể làm
bằng tấm kim loại, đến thời kỳ đế quốc thì xuất hiện áo
giáp có từng lớp vảy như vảy cá.
Đối với kỵ binh La Mã cũng được trang bị đồng bộ.
ngoài ngựa chiến, họ có áo giáp, mũ sắt. khiên sắt được
chế tạo chắc chắn và phù hợp tính chất của kỵ binh.
Khi công phá thành thì quân đội sử dụng một loại
chùy to tròn dài bằng gỗ, đầu cây gỗ có gắn cọc sắt như
đầu một con dê, ở giữa cây chùy có xích sắt hoặc dây
thừng treo trên giá gỗ để làm điểm tựa, cứ thế binh lính
165