Page 156 - Di Chỉ Của Nền Văn Minh Xưa
P. 156
Trung - Tây khai thông, Á - Âu khai thông càng làm cho
xã hội phát triển về kinh tế, bộ mặt xã hội phồn vinh hẳn
lên, náo nhiệt hẳn lên.
2. GIẤY DA DÊ VÀ SÁCH IN NẾN
Thế kỷ 1 sau công nguyên, trước khi Thái Luân,
Trung Quốc phát minh ra kỹ thuật làm giấy, thì các văn
sĩ thế giới viết bằng nhiều loại dụng cụ khác nhau.
Người Trung Quốc thì khác chữ tượng hình trên xưcmg
rồi khắc lên đồng, sau đó dùng bút viết lên vải lụa, gọi
là "Miên thư". Người Ai Cập thì lấy cây lau bên bờ sông
Nero để viết lên đó gọi là "chỉ thảo thư”. Người An Độ
thì dùng lá dừa ép phảng cắt đều nhau ngay ngắn và viết
lên đó và được gọi là: "Thụ diệp thư". Người xưa bên
lưu vực sông Tây Á nghĩ ra một loại để viết gọi là: "Nê
bản thư" (tức là viết trên tấm bùn phảng khô), khi khắc
chữ lên tấm bùn đó để khô hoặc sấy lên than lửa cho
khô là có một bản vãn tự. Còn người cổ Hy Lạp, cổ La
Mã thì phát minh ra một loại đặc biệt gọi là "Lạp bản
thư" (tức là viết trên tấm giấy nến). Họ còn lấy da bò
hoặc da dê gia công thành "Giấy da" được coi là một
loại vật liệu viết cao cấp để ghi chép tư liệu sử sách.
Giấy da do một thợ lành nghê chế tạo, trước hết họ
làm mềm da bò hoặc da dê, cạo sạch nhẵn. Người ta vẫn
quen gọi là "giấy da dê". Họ dùng bút lông ngỗng hoặc
157