Page 154 - Đánh Giá Cạnh Tranh Trong Một Số Ngành Dịch Vụ Của Việt Nam
P. 154
Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam 148
quản lý là NHNN với các TCTD nhằm củng cố, nâng cao hiệu quả
hoạt động toàn hệ thống, hoàn thiện thể chế chính sách hoạt động….
Như vậy, xét về tổng thể, các chủ thể tham gia hoạt động kinh
doanh ngân hàng tương đối đa dạng về loại hình và tính chất sở hữu.
Tuy nhiên, không phải ngân hàng nào cũng tham gia vào việc
kinh doanh thẻ. Các tổ chức phát hành thẻ đa số là các ngân hàng,
nhưng cũng có một số tổ chức được Ngân hàng Nhà nước cho phép
hoạt động kinh doanh thẻ theo quy định của pháp luật. Như đã nêu tại
phần 1, đến cuối tháng 3/2013, trong số 148 ngân hàng mới chỉ có 52
tổ chức đăng ký phát hành thẻ, đó là 52 đối thủ cạnh tranh trên thị
trường thẻ Việt Nam.
3. Thị phần và mức độ tập trung trên thị trường
3.1 Thị phần
Thông thường khi ước tính thị phần của một doanh nghiệp trong
một thị trường/ngành kinh tế để đánh giá tình hình cạnh tranh, người
ta thường sử dụng số liệu doanh thu của doanh nghiệp trong chính thị
trường/ngành đó để tính thị phần của doanh nghiệp trên thị trường liên
quan, từ đó đi đến các kết luận tương đối về cấu trúc thị trường của
ngành/thị trường đó. Tuy nhiên, do đặc thù của ngành ngân hàng,
“doanh thu để xác định thị phần của tổ chức tín dụng được tính bằng
các khoản thu nhập sau đây: thu nhập tiền lãi; thu nhập phí từ hoạt
động dịch vụ; thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại hối; thu nhập từ
lãi góp vốn, mua cổ phần; thu nhập từ hoạt động kinh doanh khác; thu
34
nhập khác” .
Căn cứ vào số liệu tổng doanh thu ngành ngân hàng do Ngân
hàng Nhà nước cung cấp và báo cáo tài chính của các tổ chức tín dụng
35
đã công bố, thị phần nói chung của một số ngân hàng tại Việt Nam
được tính như sau:
34 Điều 12 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP.
35
Mặc dù thị trường sản phẩm liên quan chia theo từng loại hình dịch vụ cụ thể,
nhưng thị phầm vẫn được tính gộp cho tất cả các thị trưởng sản phẩm liên quan.